View allAll Photos Tagged dieukhacdatinkhoi,
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT121 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT115 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT119 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT114 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT116 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT113 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT118 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT120 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT112 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT111 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT109 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT122 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT117 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT110 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Mỗi người khi sinh ra đều được Phật đi theo phù hộ, tương ứng với từng năm sinh mà đức Phật độ mệnh cho mỗi người lại khác nhau. Vậy bạn đã biết Phật bản mệnh của từng con giáp là ai chưa?
Trong sách “Pháp uyển châu lâm” của nhà phật có viết: “Bên ngoài cõi Diêm Phù Đề, bên trong bốn biển có 12 loài thú được Bồ Tát giáo hóa. Khi cõi người mới sinh ra, Bồ Tát phân nhiệm vụ những loài thú này bảo vệ, nhận được lợi ích nên 12 con giáp cũng dựa vào đó để đặt ra…”. Mỗi con giáp sẽ thuộc quản lý và nhận được sự độ mệnh của một vị Phật khác nhau. Những vị phật này sẽ bảo hộ và mang đến may mắn, sức khỏe, thành công cho những con giáp này.
Phật độ mệnh không phân biệt giàu nghèo, giới tính. Vì thế nếu muốn cầu bình an, may mắn, thành công thì nên đeo vòng hoặc dây có hình vị phật độ mệnh cho con giáp của mình và làm việc tốt kết hợp cùng hướng tới vị phật bản mệnh để cầu phúc.
Phật bản mệnh được phân định theo tuổi (con giáp) như sau
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Tuổi Dậu: Bất Động Tôn Bồ Tát
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Tùy theo năm sinh mà ta phân định con giáp nào được Phật nào độ mệnh. Phật bản mệnh không thay đổi theo năm. Theo quan niệm dân gian, Phật bản mệnh sẽ bảo hộ cho bạn được bình an, cuộc sống thuận buồm xuôi gió.
Bạn nên biết Phật bản mệnh của mình là ai, điều đó sẽ giúp ích rất nhiều cho cuộc sống sau này của bạn. Đơn giản như khi đi chùa cầu an lễ Phật, ta biết hướng về ai kêu cầu, ước nguyện. Phật không phân sang hèn, không phân già trẻ, chỉ cần bạn thành tâm cầu khấn thì mỗi đức Phật đều có công đức vô lượng, có thể bảo hộ cho ta vượt mọi khó khăn. Bày tượng Phật bản mệnh hoặc đeo vòng có mặt hình tượng Phật bản mệnh, bạn sẽ có được bình an, may mắn và hạnh phúc như ý.
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Người sinh năm Tý có Phật độ mệnh là Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, biểu trưng cho đại từ đại bi. Ngài sẽ giúp bạn vượt qua được mọi khó khăn trong cuộc sống, có đủ ý chí và niềm tin để chiến thắng mọi bệnh tật. Khi vận may của bạn tìm đến, Ngài sẽ góp sức để vận thế của bạn thêm huy hoàng, xán lạn. Ngược lại, nếu bạn đang gặp vận rủi, Ngài sẽ giúp bạn hóa giải khó khăn, vượt qua hoạn nạn một cách để cuộc sống bình an, hạnh phúc và may mắn.
Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay là một trong tứ đại Bồ Tát. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay và Đại Thế Chí Bồ Tát là người phò trợ truyền bá Thánh pháp cho Phật A di đà. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cùng với Phật A di đà và Đại Thế Chí Bồ Tát hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
Điển tích Phật giáo có ghi chép lại, nghìn tay của Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dùng để cứu hộ chúng sinh, còn nghìn mắt để dõi khắp nhân gian. Sau thời nhà Đường ở Trung Quốc, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dần dần được rất nhiều chùa chiền thờ phụng. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thường lấy 42 cánh tay tượng trưng cho nghìn tay, trên mỗi cánh tay đều có một mắt.
Chữ “nghìn” trong Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thể hiện sự vô lượng và viên mãn, nghìn tay từ bi dang rộng cứu giúp chúng sinh, nghìn mắt trí tuệ soi thấu khắp cõi trần gian. Theo “Kinh Đà la ni”: Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay phổ độ chúng sinh, thỏa mãn mọi ước nguyện, giúp dân chúng sống đời an lạc.
Ngày Quan Âm nghìn mắt nghìn tay đản sinh: ngày 19 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Người sinh năm Sửu, năm Dần có Phật độ mệnh là Hư Không Tạng Bồ Tát, đại diện cho sự thành thực và sung túc. Bất hư bất không là Thần Tài của Phật giới, khi bạn mang theo mình mặt ngọc Hư Không Tạng Bồ Tát, ngài sẽ giúp bạn mở lối thoát nguy nan, tránh hao tài phá của, vận thế tài lộc tăng tiến không ngừng, lại càng thêm sinh tài tụ lộc, được Bát Phương quý nhân tương trợ, đánh đuổi tiểu nhân, tiền tài vượng phát.
Tên phiên âm theo tiếng Phạn của Hư Không Tạng Bồ Tát là Akasagarbha, mật danh là Khố Tạng Kim Cương. Hư Không Tạng Bồ Tát là Đệ nhất phù thần của Tam Thế Chư Phật, công đức khắp hư không, thông tuệ mọi điều trên thế gian này, có tâm nhẫn nhịn tựa kim cương, ý chí kiên cường như gió lớn, đẩy lùi mọi cám dỗ trên đời. Đọc thông “Hư Không Tạng chú” có thể giữ tâm kiên định, tăng cường trí nhớ, thúc đẩy chí tiến thủ.
Hư Không Tạng Bồ Tát có sức mạnh ban tạng niềm vui và tài lộc. “Tạng” thể hiện phúc đức trí tuệ vô biên, “Hư Không” thể hiện sự rộng lớn khôn cùng, “Đại phương đẳng đại tập kinh” có chỉ rõ: Hư Không Tạng tựa như phú ông, chúng sinh đói khổ chỉ cần đến trước mặt Bồ Tát kêu cầu là được cứu tế. Vì thế mà Hư Không Tạng Bồ Tát còn được biết đến là vị Bồ Tát coi cứu độ chúng sinh là niềm vui.
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Người sinh năm Mão có Phật độ mệnh là Văn Thù Bồ Tát, biểu trưng của đại trí tuệ, có thể thắp lên ánh sáng tinh thần, khai sáng tư duy, tăng cao ngộ tính. Ngài giúp cho đường học hành thuận lợi, hoạn lộ thênh thang, phúc lộc đầy nhà. Người tuổi Mão sẽ càng thêm sáng tạo, ý chí kiên cường, đủ sức cạnh tranh và chiến thắng đối phương, sự nghiệp thăng tiến không ngừng.
Danh xưng theo âm tiếng Phạn của Văn Thù Bồ Tát là Manjusri, hay còn gọi là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. “Đại Nhật kinh” ghi rằng: Diệu Cát Tường, Văn Thù hay Mạn Thù đều mang nghĩa chỉ điều kì diệu, còn Sư Lợi hay Thất Lợi có nghĩa là phúc đức hay cát tường, gọi đơn giản là Văn Thù.
Văn Thù Bồ Tát là thị giả theo hầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đại đệ tử của Đức Phật. Văn Thù Bồ Tát, Phật Thích Ca Mâu Ni và Phổ Hiền Bồ Tát được dân gian tôn là “Hoa Nghiêm Tam Thánh”. Văn Thù Bồ Tát là bậc đại trí dùng trí tuệ dẫn đường chúng sinh, tài năng đức độ đứng đầu trong các vị Bồ Tát, là biểu trưng cho trí tuệ.
Văn Thù Bồ Tát còn được gọi là Pháp Vương Tử, đại diện cho trí tuệ, mặc đồ màu tím vàng như Đồng tử, đỉnh đầu có 5 xoáy, tóc búi cao. Tay phải cầm Kim cương bảo kiếm (tượng trưng cho sự sắc bén của trí tuệ), có thể chém ma trừ tà, chặt đứt mọi nỗi muộn phiền. Tay phải cầm búp sen xanh, trong búp hoa có cuốn kinh Kim cương, tượng trưng cho trí tuệ vô thượng, cưỡi trên lưng sư tử (biểu trưng cho sức mạnh của trí tuệ).
Ngày Văn Thù Bồ Tát đản sinh: ngày 4 tháng 4 âm lịch.
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Người sinh năm Thìn, năm Tị có Phật độ mệnh là Phổ Hiền Bồ Tát, đại diện cho lý trí, đức độ và đại hành nguyện. Ngài sẽ đi theo phù hộ cho người tuổi Thìn, tuổi Tị hoàn thành ước nguyện, trừ bỏ tiểu nhân, tăng thêm khí thế, quyền uy của người lãnh đạo, giúp bạn cầu được ước thấy, hạnh phúc mỹ mãn.
Tên tiếng Phạn của Phổ Hiền Bồ Tát là Samantabhadra. Phổ Hiền Bồ Tát đi theo phù trợ, truyền bá Phật giáo cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng với Văn Thù Bồ Tát hợp thành “Hoa Nghiêm Tam Thánh”.
Phổ Hiền Bồ Tát có lời nguyện rằng: “Phổ hiền hành nguyện uy thần lực, phổ hiện nhất thiết như lai tiền”. Phổ Hiền Bồ Tát truyền bá Phật pháp thập phương công đức vô lượng, còn tu hành đạo hạnh vô thượng, có thể độ vô biên hữu tình, dùng trí tuệ để thỏa nguyện chúng sinh, giúp muôn dân biết đến đạo Phật.
Phổ Hiền Bồ Tát hành thiện vô số, phân thân trong tích tắc, tùy duyên giáo hóa chúng sinh. Dân gian còn gọi Ngài là Thập Đại Nguyện Vương, “Pháp Hoa kinh” ghi rằng: chỉ cần thành tâm tín phật là Phổ Hiền Bồ Tát cùng chư đại Bồ Tát sẽ cùng hiện thân bảo hộ, giúp cho thân tâm đều được an yên, xóa bỏ mọi ưu phiền, chẳng lo yêu ma quấy phá.
“Phổ Hiền diên mệnh kinh kí” nói rằng: Phổ Hiền Bồ Tát có sức mạnh vô cùng, có khả năng kéo dài tuổi thọ. Ngài là đại diện cho lễ đức và hành thiện, tượng trưng cho chân lý. Ngài dùng trí tuệ dẫn lối chúng sinh, dùng hành động để làm gương cho muôn dân, hoàn thành những ước nguyện của người cầu Phật, còn được dân chúng tôn làm “Đại hành Phổ Hiền Bồ Tát”.
Ngày Phổ Hiền Bồ Tát đản sinh: ngày 21 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Người sinh năm Ngọ có Phật độ mệnh là Đại Thế Chí Bồ Tát, ban cho người tuổi Ngọ ánh sáng trí tuệ, giúp đường đời được thuận buồm xuôi gió, sự nghiệp hanh thông. Ánh sáng vĩnh hằng Phật pháp sẽ hóa sát trừ hung, ban điều như ý cát tường, chỉ lối dẫn đường cho người tuổi Ngọ phát huy năng lực để đạt đến lý tưởng cao nhất.
Đại Thế Chí Bồ Tát là vị hành giả bên cạnh Phật A di đà, còn gọi là Đại Tinh Tiến Bồ Tát, gọi tắt là Thế Chí. Đại Thế Chí Bồ Tát cùng Phật A di đà và Quan Thế Âm Bồ Tát (Quan Âm nghìn mắt nghìn tay) hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
“Bi Hoa kinh” kể rằng trước đây có một vị chuyển luân Thánh Vương, đại thái tử là Quan Thế Âm Bồ Tát, nhị thái tử là Đại Thế Chí Bồ Tát, tam thái tử là Văn Thù Bồ Tát, tứ thái tử là Phổ Hiền Bồ Tát. Chuyển luân Thánh Vương về sau tu hành thành Phật, chính là Phật A di đà của giới Tây phương cực lạc, Quan Thế Âm Bồ Tát cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đi theo vua cha phò trợ tả hữu hai bên.
“Quan vô lượng thọ kinh” ghi rằng: Đại Thế Chí Bồ Tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp nhân gian, giúp chúng sinh thoát khỏi nạn đao binh cũng như thiên tai bão lụt, công đức vô lượng, uy thế vô biên. Đại Thế Chí Bồ Tát là ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh.
Ngày Đại Thế Chí Bồ Tát đản sinh: ngày 13 tháng 7 âm lịch.
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Người sinh năm Mùi, năm Thân có Phật độ mệnh là Đại Nhật Như Lai, Ngài là biểu tượng của ánh sáng và trí tuệ, giúp người tuổi Mùi, tuổi Thân luôn giữ được tinh thần minh mẫn, trừ yêu tránh tà, cảm nhận được tinh hoa vạn vật, hấp thu linh khí đất trời, vững vàng tiến lên phía trước, cuộc đời sáng lạn, hạnh phúc.
Đại Nhật Như Lai là tôn xưng chí cao vô thượng trong Phật giáo Mật tông, là Đức Phật cấp cao nhất trong Mật tông. Theo đó, tất cả các đức Phật và Bồ Tát đều do Đại Nhật Như Lai mà ra, Đại Nhật Như Lai đứng đầu chỉ huy tất cả, là đức Phật khởi sinh trong giới Phật giáo Mật tông.
“Đại nhật” có nghĩa là thắng cả mặt trời, Đại Nhật Như Lai có thể phá bỏ mọi tà pháp, xóa mọi trở ngại trong chốn nhân gian, công đức viên mãn, đem ánh sáng trí tuệ chiếu sáng muôn nơi, không còn đêm đen che giấu, khởi nguồn sinh sôi Phật Tâm. Ánh sáng trí tuệ của Đại Nhật Như Lai khơi gợi tâm thiện trong mỗi con người.
Tuổi Dậu: Bất Động Minh Vương
Người sinh năm Dậu có Phật độ mệnh là Bất Động Minh Vương – Bất Động Tôn Bồ Tát, tượng trưng cho lý trí, trí tuệ. Ngài sẽ thầm lặng đi theo bảo vệ, giúp cho người tuổi Dậu trên đường đời phân biệt phải trái đúng sai, nắm bắt cơ hội đến với mình, sử dụng trí tuệ để ứng phó với khó khăn, vượt qua nghịch cảnh, có được sự nghiệp thành công, gia đình hạnh phúc. Đeo tượng Phật bản mệnh Bất Động Tôn Bồ Tát có những điều cấm kị, bạn đừng bỏ qua nhé.
Bất Động Tôn Bồ Tát còn có tên tiếng Phạn là Acalanatha, nghĩa là Bất Động Tôn hay Vô Động Tôn. Giáo giới tôn ngài làm Bất Động Minh Vương, là sứ giả bất động. “Bất động” ở đây chỉ tâm từ bi bền vững không chút dao động lung lay, còn “Minh” chỉ ánh sáng trí tuệ.
Chỉ cần nhìn thấy Bất Động Tôn Bồ Tát là tự phát thiện tâm, nghe thấy tên là đoạn mọi ác tâm, nghe thấy pháp danh như được thêm trí tuệ, hiểu rõ tâm tư thì có cơ may thành Phật.
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Người sinh năm Tuất, năm Hợi có Phật độ mệnh là Phật A di đà, tượng trưng cho ánh sáng, phúc thọ, bảo hộ cho người tuổi Tuất, tuổi Hợi trí tuệ hơn người, xóa bỏ phiền não, mệt mỏi, kiên cường gây dựng cơ đồ, hưởng đời an lạc.
Phật A di đà còn có tên tiếng Phạn là Amitayusa (Vô Lượng Thọ), Amitaba (Vô Lượng Quang). Ngài còn được gọi là Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Quang, Phật Quan Tự Tại Vương, Cam Lộ Vương. Phật A di đà là giáo chủ trong giới Tây phương cực lạc, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tài hợp thành “Tây Phương Tam Thánh”.
Theo ghi chép cổ, từ thời xa xưa, Ngài vốn được giáo hóa bởi Phật Thế Tự Tại Vương, nguyện gây dựng Phật Quốc tận thiện tận mĩ (nơi cực lạc), dùng cách đi độ hóa chúng sinh, phát 48 lời thề nguyện, nhờ đó tu hành thành Phật A di đà. Những ai có cơ may gặp được Ngài thì có thể thoát khỏi mọi nỗi thống khổ trên đời.
Ngày Phật A di đà đản sinh: ngày 17 tháng 11 âm lịch. (Đây kì thực là ngày sinh của Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, tương truyền là đấng tái sinh của Phật A di đà.)
Các mẫu Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá tại cơ sở Tín Khôi:
Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết DCG16 – Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Mỗi người khi sinh ra đều được Phật đi theo phù hộ, tương ứng với từng năm sinh mà đức Phật độ mệnh cho mỗi người lại khác nhau. Vậy bạn đã biết Phật bản mệnh của từng con giáp là ai chưa?
Trong sách “Pháp uyển châu lâm” của nhà phật có viết: “Bên ngoài cõi Diêm Phù Đề, bên trong bốn biển có 12 loài thú được Bồ Tát giáo hóa. Khi cõi người mới sinh ra, Bồ Tát phân nhiệm vụ những loài thú này bảo vệ, nhận được lợi ích nên 12 con giáp cũng dựa vào đó để đặt ra…”. Mỗi con giáp sẽ thuộc quản lý và nhận được sự độ mệnh của một vị Phật khác nhau. Những vị phật này sẽ bảo hộ và mang đến may mắn, sức khỏe, thành công cho những con giáp này.
Phật độ mệnh không phân biệt giàu nghèo, giới tính. Vì thế nếu muốn cầu bình an, may mắn, thành công thì nên đeo vòng hoặc dây có hình vị phật độ mệnh cho con giáp của mình và làm việc tốt kết hợp cùng hướng tới vị phật bản mệnh để cầu phúc.
Phật bản mệnh được phân định theo tuổi (con giáp) như sau
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Tuổi Dậu: Bất Động Tôn Bồ Tát
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Tùy theo năm sinh mà ta phân định con giáp nào được Phật nào độ mệnh. Phật bản mệnh không thay đổi theo năm. Theo quan niệm dân gian, Phật bản mệnh sẽ bảo hộ cho bạn được bình an, cuộc sống thuận buồm xuôi gió.
Bạn nên biết Phật bản mệnh của mình là ai, điều đó sẽ giúp ích rất nhiều cho cuộc sống sau này của bạn. Đơn giản như khi đi chùa cầu an lễ Phật, ta biết hướng về ai kêu cầu, ước nguyện. Phật không phân sang hèn, không phân già trẻ, chỉ cần bạn thành tâm cầu khấn thì mỗi đức Phật đều có công đức vô lượng, có thể bảo hộ cho ta vượt mọi khó khăn. Bày tượng Phật bản mệnh hoặc đeo vòng có mặt hình tượng Phật bản mệnh, bạn sẽ có được bình an, may mắn và hạnh phúc như ý.
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Người sinh năm Tý có Phật độ mệnh là Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, biểu trưng cho đại từ đại bi. Ngài sẽ giúp bạn vượt qua được mọi khó khăn trong cuộc sống, có đủ ý chí và niềm tin để chiến thắng mọi bệnh tật. Khi vận may của bạn tìm đến, Ngài sẽ góp sức để vận thế của bạn thêm huy hoàng, xán lạn. Ngược lại, nếu bạn đang gặp vận rủi, Ngài sẽ giúp bạn hóa giải khó khăn, vượt qua hoạn nạn một cách để cuộc sống bình an, hạnh phúc và may mắn.
Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay là một trong tứ đại Bồ Tát. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay và Đại Thế Chí Bồ Tát là người phò trợ truyền bá Thánh pháp cho Phật A di đà. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cùng với Phật A di đà và Đại Thế Chí Bồ Tát hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
Điển tích Phật giáo có ghi chép lại, nghìn tay của Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dùng để cứu hộ chúng sinh, còn nghìn mắt để dõi khắp nhân gian. Sau thời nhà Đường ở Trung Quốc, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dần dần được rất nhiều chùa chiền thờ phụng. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thường lấy 42 cánh tay tượng trưng cho nghìn tay, trên mỗi cánh tay đều có một mắt.
Chữ “nghìn” trong Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thể hiện sự vô lượng và viên mãn, nghìn tay từ bi dang rộng cứu giúp chúng sinh, nghìn mắt trí tuệ soi thấu khắp cõi trần gian. Theo “Kinh Đà la ni”: Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay phổ độ chúng sinh, thỏa mãn mọi ước nguyện, giúp dân chúng sống đời an lạc.
Ngày Quan Âm nghìn mắt nghìn tay đản sinh: ngày 19 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Người sinh năm Sửu, năm Dần có Phật độ mệnh là Hư Không Tạng Bồ Tát, đại diện cho sự thành thực và sung túc. Bất hư bất không là Thần Tài của Phật giới, khi bạn mang theo mình mặt ngọc Hư Không Tạng Bồ Tát, ngài sẽ giúp bạn mở lối thoát nguy nan, tránh hao tài phá của, vận thế tài lộc tăng tiến không ngừng, lại càng thêm sinh tài tụ lộc, được Bát Phương quý nhân tương trợ, đánh đuổi tiểu nhân, tiền tài vượng phát.
Tên phiên âm theo tiếng Phạn của Hư Không Tạng Bồ Tát là Akasagarbha, mật danh là Khố Tạng Kim Cương. Hư Không Tạng Bồ Tát là Đệ nhất phù thần của Tam Thế Chư Phật, công đức khắp hư không, thông tuệ mọi điều trên thế gian này, có tâm nhẫn nhịn tựa kim cương, ý chí kiên cường như gió lớn, đẩy lùi mọi cám dỗ trên đời. Đọc thông “Hư Không Tạng chú” có thể giữ tâm kiên định, tăng cường trí nhớ, thúc đẩy chí tiến thủ.
Hư Không Tạng Bồ Tát có sức mạnh ban tạng niềm vui và tài lộc. “Tạng” thể hiện phúc đức trí tuệ vô biên, “Hư Không” thể hiện sự rộng lớn khôn cùng, “Đại phương đẳng đại tập kinh” có chỉ rõ: Hư Không Tạng tựa như phú ông, chúng sinh đói khổ chỉ cần đến trước mặt Bồ Tát kêu cầu là được cứu tế. Vì thế mà Hư Không Tạng Bồ Tát còn được biết đến là vị Bồ Tát coi cứu độ chúng sinh là niềm vui.
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Người sinh năm Mão có Phật độ mệnh là Văn Thù Bồ Tát, biểu trưng của đại trí tuệ, có thể thắp lên ánh sáng tinh thần, khai sáng tư duy, tăng cao ngộ tính. Ngài giúp cho đường học hành thuận lợi, hoạn lộ thênh thang, phúc lộc đầy nhà. Người tuổi Mão sẽ càng thêm sáng tạo, ý chí kiên cường, đủ sức cạnh tranh và chiến thắng đối phương, sự nghiệp thăng tiến không ngừng.
Danh xưng theo âm tiếng Phạn của Văn Thù Bồ Tát là Manjusri, hay còn gọi là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. “Đại Nhật kinh” ghi rằng: Diệu Cát Tường, Văn Thù hay Mạn Thù đều mang nghĩa chỉ điều kì diệu, còn Sư Lợi hay Thất Lợi có nghĩa là phúc đức hay cát tường, gọi đơn giản là Văn Thù.
Văn Thù Bồ Tát là thị giả theo hầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đại đệ tử của Đức Phật. Văn Thù Bồ Tát, Phật Thích Ca Mâu Ni và Phổ Hiền Bồ Tát được dân gian tôn là “Hoa Nghiêm Tam Thánh”. Văn Thù Bồ Tát là bậc đại trí dùng trí tuệ dẫn đường chúng sinh, tài năng đức độ đứng đầu trong các vị Bồ Tát, là biểu trưng cho trí tuệ.
Văn Thù Bồ Tát còn được gọi là Pháp Vương Tử, đại diện cho trí tuệ, mặc đồ màu tím vàng như Đồng tử, đỉnh đầu có 5 xoáy, tóc búi cao. Tay phải cầm Kim cương bảo kiếm (tượng trưng cho sự sắc bén của trí tuệ), có thể chém ma trừ tà, chặt đứt mọi nỗi muộn phiền. Tay phải cầm búp sen xanh, trong búp hoa có cuốn kinh Kim cương, tượng trưng cho trí tuệ vô thượng, cưỡi trên lưng sư tử (biểu trưng cho sức mạnh của trí tuệ).
Ngày Văn Thù Bồ Tát đản sinh: ngày 4 tháng 4 âm lịch.
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Người sinh năm Thìn, năm Tị có Phật độ mệnh là Phổ Hiền Bồ Tát, đại diện cho lý trí, đức độ và đại hành nguyện. Ngài sẽ đi theo phù hộ cho người tuổi Thìn, tuổi Tị hoàn thành ước nguyện, trừ bỏ tiểu nhân, tăng thêm khí thế, quyền uy của người lãnh đạo, giúp bạn cầu được ước thấy, hạnh phúc mỹ mãn.
Tên tiếng Phạn của Phổ Hiền Bồ Tát là Samantabhadra. Phổ Hiền Bồ Tát đi theo phù trợ, truyền bá Phật giáo cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng với Văn Thù Bồ Tát hợp thành “Hoa Nghiêm Tam Thánh”.
Phổ Hiền Bồ Tát có lời nguyện rằng: “Phổ hiền hành nguyện uy thần lực, phổ hiện nhất thiết như lai tiền”. Phổ Hiền Bồ Tát truyền bá Phật pháp thập phương công đức vô lượng, còn tu hành đạo hạnh vô thượng, có thể độ vô biên hữu tình, dùng trí tuệ để thỏa nguyện chúng sinh, giúp muôn dân biết đến đạo Phật.
Phổ Hiền Bồ Tát hành thiện vô số, phân thân trong tích tắc, tùy duyên giáo hóa chúng sinh. Dân gian còn gọi Ngài là Thập Đại Nguyện Vương, “Pháp Hoa kinh” ghi rằng: chỉ cần thành tâm tín phật là Phổ Hiền Bồ Tát cùng chư đại Bồ Tát sẽ cùng hiện thân bảo hộ, giúp cho thân tâm đều được an yên, xóa bỏ mọi ưu phiền, chẳng lo yêu ma quấy phá.
“Phổ Hiền diên mệnh kinh kí” nói rằng: Phổ Hiền Bồ Tát có sức mạnh vô cùng, có khả năng kéo dài tuổi thọ. Ngài là đại diện cho lễ đức và hành thiện, tượng trưng cho chân lý. Ngài dùng trí tuệ dẫn lối chúng sinh, dùng hành động để làm gương cho muôn dân, hoàn thành những ước nguyện của người cầu Phật, còn được dân chúng tôn làm “Đại hành Phổ Hiền Bồ Tát”.
Ngày Phổ Hiền Bồ Tát đản sinh: ngày 21 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Người sinh năm Ngọ có Phật độ mệnh là Đại Thế Chí Bồ Tát, ban cho người tuổi Ngọ ánh sáng trí tuệ, giúp đường đời được thuận buồm xuôi gió, sự nghiệp hanh thông. Ánh sáng vĩnh hằng Phật pháp sẽ hóa sát trừ hung, ban điều như ý cát tường, chỉ lối dẫn đường cho người tuổi Ngọ phát huy năng lực để đạt đến lý tưởng cao nhất.
Đại Thế Chí Bồ Tát là vị hành giả bên cạnh Phật A di đà, còn gọi là Đại Tinh Tiến Bồ Tát, gọi tắt là Thế Chí. Đại Thế Chí Bồ Tát cùng Phật A di đà và Quan Thế Âm Bồ Tát (Quan Âm nghìn mắt nghìn tay) hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
“Bi Hoa kinh” kể rằng trước đây có một vị chuyển luân Thánh Vương, đại thái tử là Quan Thế Âm Bồ Tát, nhị thái tử là Đại Thế Chí Bồ Tát, tam thái tử là Văn Thù Bồ Tát, tứ thái tử là Phổ Hiền Bồ Tát. Chuyển luân Thánh Vương về sau tu hành thành Phật, chính là Phật A di đà của giới Tây phương cực lạc, Quan Thế Âm Bồ Tát cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đi theo vua cha phò trợ tả hữu hai bên.
“Quan vô lượng thọ kinh” ghi rằng: Đại Thế Chí Bồ Tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp nhân gian, giúp chúng sinh thoát khỏi nạn đao binh cũng như thiên tai bão lụt, công đức vô lượng, uy thế vô biên. Đại Thế Chí Bồ Tát là ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh.
Ngày Đại Thế Chí Bồ Tát đản sinh: ngày 13 tháng 7 âm lịch.
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Người sinh năm Mùi, năm Thân có Phật độ mệnh là Đại Nhật Như Lai, Ngài là biểu tượng của ánh sáng và trí tuệ, giúp người tuổi Mùi, tuổi Thân luôn giữ được tinh thần minh mẫn, trừ yêu tránh tà, cảm nhận được tinh hoa vạn vật, hấp thu linh khí đất trời, vững vàng tiến lên phía trước, cuộc đời sáng lạn, hạnh phúc.
Đại Nhật Như Lai là tôn xưng chí cao vô thượng trong Phật giáo Mật tông, là Đức Phật cấp cao nhất trong Mật tông. Theo đó, tất cả các đức Phật và Bồ Tát đều do Đại Nhật Như Lai mà ra, Đại Nhật Như Lai đứng đầu chỉ huy tất cả, là đức Phật khởi sinh trong giới Phật giáo Mật tông.
“Đại nhật” có nghĩa là thắng cả mặt trời, Đại Nhật Như Lai có thể phá bỏ mọi tà pháp, xóa mọi trở ngại trong chốn nhân gian, công đức viên mãn, đem ánh sáng trí tuệ chiếu sáng muôn nơi, không còn đêm đen che giấu, khởi nguồn sinh sôi Phật Tâm. Ánh sáng trí tuệ của Đại Nhật Như Lai khơi gợi tâm thiện trong mỗi con người.
Tuổi Dậu: Bất Động Minh Vương
Người sinh năm Dậu có Phật độ mệnh là Bất Động Minh Vương – Bất Động Tôn Bồ Tát, tượng trưng cho lý trí, trí tuệ. Ngài sẽ thầm lặng đi theo bảo vệ, giúp cho người tuổi Dậu trên đường đời phân biệt phải trái đúng sai, nắm bắt cơ hội đến với mình, sử dụng trí tuệ để ứng phó với khó khăn, vượt qua nghịch cảnh, có được sự nghiệp thành công, gia đình hạnh phúc. Đeo tượng Phật bản mệnh Bất Động Tôn Bồ Tát có những điều cấm kị, bạn đừng bỏ qua nhé.
Bất Động Tôn Bồ Tát còn có tên tiếng Phạn là Acalanatha, nghĩa là Bất Động Tôn hay Vô Động Tôn. Giáo giới tôn ngài làm Bất Động Minh Vương, là sứ giả bất động. “Bất động” ở đây chỉ tâm từ bi bền vững không chút dao động lung lay, còn “Minh” chỉ ánh sáng trí tuệ.
Chỉ cần nhìn thấy Bất Động Tôn Bồ Tát là tự phát thiện tâm, nghe thấy tên là đoạn mọi ác tâm, nghe thấy pháp danh như được thêm trí tuệ, hiểu rõ tâm tư thì có cơ may thành Phật.
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Người sinh năm Tuất, năm Hợi có Phật độ mệnh là Phật A di đà, tượng trưng cho ánh sáng, phúc thọ, bảo hộ cho người tuổi Tuất, tuổi Hợi trí tuệ hơn người, xóa bỏ phiền não, mệt mỏi, kiên cường gây dựng cơ đồ, hưởng đời an lạc.
Phật A di đà còn có tên tiếng Phạn là Amitayusa (Vô Lượng Thọ), Amitaba (Vô Lượng Quang). Ngài còn được gọi là Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Quang, Phật Quan Tự Tại Vương, Cam Lộ Vương. Phật A di đà là giáo chủ trong giới Tây phương cực lạc, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tài hợp thành “Tây Phương Tam Thánh”.
Theo ghi chép cổ, từ thời xa xưa, Ngài vốn được giáo hóa bởi Phật Thế Tự Tại Vương, nguyện gây dựng Phật Quốc tận thiện tận mĩ (nơi cực lạc), dùng cách đi độ hóa chúng sinh, phát 48 lời thề nguyện, nhờ đó tu hành thành Phật A di đà. Những ai có cơ may gặp được Ngài thì có thể thoát khỏi mọi nỗi thống khổ trên đời.
Ngày Phật A di đà đản sinh: ngày 17 tháng 11 âm lịch. (Đây kì thực là ngày sinh của Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, tương truyền là đấng tái sinh của Phật A di đà.)
Các mẫu Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá tại cơ sở Tín Khôi:
Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết DCG24 – Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Mỗi người khi sinh ra đều được Phật đi theo phù hộ, tương ứng với từng năm sinh mà đức Phật độ mệnh cho mỗi người lại khác nhau. Vậy bạn đã biết Phật bản mệnh của từng con giáp là ai chưa?
Trong sách “Pháp uyển châu lâm” của nhà phật có viết: “Bên ngoài cõi Diêm Phù Đề, bên trong bốn biển có 12 loài thú được Bồ Tát giáo hóa. Khi cõi người mới sinh ra, Bồ Tát phân nhiệm vụ những loài thú này bảo vệ, nhận được lợi ích nên 12 con giáp cũng dựa vào đó để đặt ra…”. Mỗi con giáp sẽ thuộc quản lý và nhận được sự độ mệnh của một vị Phật khác nhau. Những vị phật này sẽ bảo hộ và mang đến may mắn, sức khỏe, thành công cho những con giáp này.
Phật độ mệnh không phân biệt giàu nghèo, giới tính. Vì thế nếu muốn cầu bình an, may mắn, thành công thì nên đeo vòng hoặc dây có hình vị phật độ mệnh cho con giáp của mình và làm việc tốt kết hợp cùng hướng tới vị phật bản mệnh để cầu phúc.
Phật bản mệnh được phân định theo tuổi (con giáp) như sau
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Tuổi Dậu: Bất Động Tôn Bồ Tát
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Tùy theo năm sinh mà ta phân định con giáp nào được Phật nào độ mệnh. Phật bản mệnh không thay đổi theo năm. Theo quan niệm dân gian, Phật bản mệnh sẽ bảo hộ cho bạn được bình an, cuộc sống thuận buồm xuôi gió.
Bạn nên biết Phật bản mệnh của mình là ai, điều đó sẽ giúp ích rất nhiều cho cuộc sống sau này của bạn. Đơn giản như khi đi chùa cầu an lễ Phật, ta biết hướng về ai kêu cầu, ước nguyện. Phật không phân sang hèn, không phân già trẻ, chỉ cần bạn thành tâm cầu khấn thì mỗi đức Phật đều có công đức vô lượng, có thể bảo hộ cho ta vượt mọi khó khăn. Bày tượng Phật bản mệnh hoặc đeo vòng có mặt hình tượng Phật bản mệnh, bạn sẽ có được bình an, may mắn và hạnh phúc như ý.
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Người sinh năm Tý có Phật độ mệnh là Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, biểu trưng cho đại từ đại bi. Ngài sẽ giúp bạn vượt qua được mọi khó khăn trong cuộc sống, có đủ ý chí và niềm tin để chiến thắng mọi bệnh tật. Khi vận may của bạn tìm đến, Ngài sẽ góp sức để vận thế của bạn thêm huy hoàng, xán lạn. Ngược lại, nếu bạn đang gặp vận rủi, Ngài sẽ giúp bạn hóa giải khó khăn, vượt qua hoạn nạn một cách để cuộc sống bình an, hạnh phúc và may mắn.
Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay là một trong tứ đại Bồ Tát. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay và Đại Thế Chí Bồ Tát là người phò trợ truyền bá Thánh pháp cho Phật A di đà. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cùng với Phật A di đà và Đại Thế Chí Bồ Tát hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
Điển tích Phật giáo có ghi chép lại, nghìn tay của Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dùng để cứu hộ chúng sinh, còn nghìn mắt để dõi khắp nhân gian. Sau thời nhà Đường ở Trung Quốc, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dần dần được rất nhiều chùa chiền thờ phụng. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thường lấy 42 cánh tay tượng trưng cho nghìn tay, trên mỗi cánh tay đều có một mắt.
Chữ “nghìn” trong Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thể hiện sự vô lượng và viên mãn, nghìn tay từ bi dang rộng cứu giúp chúng sinh, nghìn mắt trí tuệ soi thấu khắp cõi trần gian. Theo “Kinh Đà la ni”: Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay phổ độ chúng sinh, thỏa mãn mọi ước nguyện, giúp dân chúng sống đời an lạc.
Ngày Quan Âm nghìn mắt nghìn tay đản sinh: ngày 19 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Người sinh năm Sửu, năm Dần có Phật độ mệnh là Hư Không Tạng Bồ Tát, đại diện cho sự thành thực và sung túc. Bất hư bất không là Thần Tài của Phật giới, khi bạn mang theo mình mặt ngọc Hư Không Tạng Bồ Tát, ngài sẽ giúp bạn mở lối thoát nguy nan, tránh hao tài phá của, vận thế tài lộc tăng tiến không ngừng, lại càng thêm sinh tài tụ lộc, được Bát Phương quý nhân tương trợ, đánh đuổi tiểu nhân, tiền tài vượng phát.
Tên phiên âm theo tiếng Phạn của Hư Không Tạng Bồ Tát là Akasagarbha, mật danh là Khố Tạng Kim Cương. Hư Không Tạng Bồ Tát là Đệ nhất phù thần của Tam Thế Chư Phật, công đức khắp hư không, thông tuệ mọi điều trên thế gian này, có tâm nhẫn nhịn tựa kim cương, ý chí kiên cường như gió lớn, đẩy lùi mọi cám dỗ trên đời. Đọc thông “Hư Không Tạng chú” có thể giữ tâm kiên định, tăng cường trí nhớ, thúc đẩy chí tiến thủ.
Hư Không Tạng Bồ Tát có sức mạnh ban tạng niềm vui và tài lộc. “Tạng” thể hiện phúc đức trí tuệ vô biên, “Hư Không” thể hiện sự rộng lớn khôn cùng, “Đại phương đẳng đại tập kinh” có chỉ rõ: Hư Không Tạng tựa như phú ông, chúng sinh đói khổ chỉ cần đến trước mặt Bồ Tát kêu cầu là được cứu tế. Vì thế mà Hư Không Tạng Bồ Tát còn được biết đến là vị Bồ Tát coi cứu độ chúng sinh là niềm vui.
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Người sinh năm Mão có Phật độ mệnh là Văn Thù Bồ Tát, biểu trưng của đại trí tuệ, có thể thắp lên ánh sáng tinh thần, khai sáng tư duy, tăng cao ngộ tính. Ngài giúp cho đường học hành thuận lợi, hoạn lộ thênh thang, phúc lộc đầy nhà. Người tuổi Mão sẽ càng thêm sáng tạo, ý chí kiên cường, đủ sức cạnh tranh và chiến thắng đối phương, sự nghiệp thăng tiến không ngừng.
Danh xưng theo âm tiếng Phạn của Văn Thù Bồ Tát là Manjusri, hay còn gọi là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. “Đại Nhật kinh” ghi rằng: Diệu Cát Tường, Văn Thù hay Mạn Thù đều mang nghĩa chỉ điều kì diệu, còn Sư Lợi hay Thất Lợi có nghĩa là phúc đức hay cát tường, gọi đơn giản là Văn Thù.
Văn Thù Bồ Tát là thị giả theo hầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đại đệ tử của Đức Phật. Văn Thù Bồ Tát, Phật Thích Ca Mâu Ni và Phổ Hiền Bồ Tát được dân gian tôn là “Hoa Nghiêm Tam Thánh”. Văn Thù Bồ Tát là bậc đại trí dùng trí tuệ dẫn đường chúng sinh, tài năng đức độ đứng đầu trong các vị Bồ Tát, là biểu trưng cho trí tuệ.
Văn Thù Bồ Tát còn được gọi là Pháp Vương Tử, đại diện cho trí tuệ, mặc đồ màu tím vàng như Đồng tử, đỉnh đầu có 5 xoáy, tóc búi cao. Tay phải cầm Kim cương bảo kiếm (tượng trưng cho sự sắc bén của trí tuệ), có thể chém ma trừ tà, chặt đứt mọi nỗi muộn phiền. Tay phải cầm búp sen xanh, trong búp hoa có cuốn kinh Kim cương, tượng trưng cho trí tuệ vô thượng, cưỡi trên lưng sư tử (biểu trưng cho sức mạnh của trí tuệ).
Ngày Văn Thù Bồ Tát đản sinh: ngày 4 tháng 4 âm lịch.
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Người sinh năm Thìn, năm Tị có Phật độ mệnh là Phổ Hiền Bồ Tát, đại diện cho lý trí, đức độ và đại hành nguyện. Ngài sẽ đi theo phù hộ cho người tuổi Thìn, tuổi Tị hoàn thành ước nguyện, trừ bỏ tiểu nhân, tăng thêm khí thế, quyền uy của người lãnh đạo, giúp bạn cầu được ước thấy, hạnh phúc mỹ mãn.
Tên tiếng Phạn của Phổ Hiền Bồ Tát là Samantabhadra. Phổ Hiền Bồ Tát đi theo phù trợ, truyền bá Phật giáo cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng với Văn Thù Bồ Tát hợp thành “Hoa Nghiêm Tam Thánh”.
Phổ Hiền Bồ Tát có lời nguyện rằng: “Phổ hiền hành nguyện uy thần lực, phổ hiện nhất thiết như lai tiền”. Phổ Hiền Bồ Tát truyền bá Phật pháp thập phương công đức vô lượng, còn tu hành đạo hạnh vô thượng, có thể độ vô biên hữu tình, dùng trí tuệ để thỏa nguyện chúng sinh, giúp muôn dân biết đến đạo Phật.
Phổ Hiền Bồ Tát hành thiện vô số, phân thân trong tích tắc, tùy duyên giáo hóa chúng sinh. Dân gian còn gọi Ngài là Thập Đại Nguyện Vương, “Pháp Hoa kinh” ghi rằng: chỉ cần thành tâm tín phật là Phổ Hiền Bồ Tát cùng chư đại Bồ Tát sẽ cùng hiện thân bảo hộ, giúp cho thân tâm đều được an yên, xóa bỏ mọi ưu phiền, chẳng lo yêu ma quấy phá.
“Phổ Hiền diên mệnh kinh kí” nói rằng: Phổ Hiền Bồ Tát có sức mạnh vô cùng, có khả năng kéo dài tuổi thọ. Ngài là đại diện cho lễ đức và hành thiện, tượng trưng cho chân lý. Ngài dùng trí tuệ dẫn lối chúng sinh, dùng hành động để làm gương cho muôn dân, hoàn thành những ước nguyện của người cầu Phật, còn được dân chúng tôn làm “Đại hành Phổ Hiền Bồ Tát”.
Ngày Phổ Hiền Bồ Tát đản sinh: ngày 21 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Người sinh năm Ngọ có Phật độ mệnh là Đại Thế Chí Bồ Tát, ban cho người tuổi Ngọ ánh sáng trí tuệ, giúp đường đời được thuận buồm xuôi gió, sự nghiệp hanh thông. Ánh sáng vĩnh hằng Phật pháp sẽ hóa sát trừ hung, ban điều như ý cát tường, chỉ lối dẫn đường cho người tuổi Ngọ phát huy năng lực để đạt đến lý tưởng cao nhất.
Đại Thế Chí Bồ Tát là vị hành giả bên cạnh Phật A di đà, còn gọi là Đại Tinh Tiến Bồ Tát, gọi tắt là Thế Chí. Đại Thế Chí Bồ Tát cùng Phật A di đà và Quan Thế Âm Bồ Tát (Quan Âm nghìn mắt nghìn tay) hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
“Bi Hoa kinh” kể rằng trước đây có một vị chuyển luân Thánh Vương, đại thái tử là Quan Thế Âm Bồ Tát, nhị thái tử là Đại Thế Chí Bồ Tát, tam thái tử là Văn Thù Bồ Tát, tứ thái tử là Phổ Hiền Bồ Tát. Chuyển luân Thánh Vương về sau tu hành thành Phật, chính là Phật A di đà của giới Tây phương cực lạc, Quan Thế Âm Bồ Tát cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đi theo vua cha phò trợ tả hữu hai bên.
“Quan vô lượng thọ kinh” ghi rằng: Đại Thế Chí Bồ Tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp nhân gian, giúp chúng sinh thoát khỏi nạn đao binh cũng như thiên tai bão lụt, công đức vô lượng, uy thế vô biên. Đại Thế Chí Bồ Tát là ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh.
Ngày Đại Thế Chí Bồ Tát đản sinh: ngày 13 tháng 7 âm lịch.
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Người sinh năm Mùi, năm Thân có Phật độ mệnh là Đại Nhật Như Lai, Ngài là biểu tượng của ánh sáng và trí tuệ, giúp người tuổi Mùi, tuổi Thân luôn giữ được tinh thần minh mẫn, trừ yêu tránh tà, cảm nhận được tinh hoa vạn vật, hấp thu linh khí đất trời, vững vàng tiến lên phía trước, cuộc đời sáng lạn, hạnh phúc.
Đại Nhật Như Lai là tôn xưng chí cao vô thượng trong Phật giáo Mật tông, là Đức Phật cấp cao nhất trong Mật tông. Theo đó, tất cả các đức Phật và Bồ Tát đều do Đại Nhật Như Lai mà ra, Đại Nhật Như Lai đứng đầu chỉ huy tất cả, là đức Phật khởi sinh trong giới Phật giáo Mật tông.
“Đại nhật” có nghĩa là thắng cả mặt trời, Đại Nhật Như Lai có thể phá bỏ mọi tà pháp, xóa mọi trở ngại trong chốn nhân gian, công đức viên mãn, đem ánh sáng trí tuệ chiếu sáng muôn nơi, không còn đêm đen che giấu, khởi nguồn sinh sôi Phật Tâm. Ánh sáng trí tuệ của Đại Nhật Như Lai khơi gợi tâm thiện trong mỗi con người.
Tuổi Dậu: Bất Động Minh Vương
Người sinh năm Dậu có Phật độ mệnh là Bất Động Minh Vương – Bất Động Tôn Bồ Tát, tượng trưng cho lý trí, trí tuệ. Ngài sẽ thầm lặng đi theo bảo vệ, giúp cho người tuổi Dậu trên đường đời phân biệt phải trái đúng sai, nắm bắt cơ hội đến với mình, sử dụng trí tuệ để ứng phó với khó khăn, vượt qua nghịch cảnh, có được sự nghiệp thành công, gia đình hạnh phúc. Đeo tượng Phật bản mệnh Bất Động Tôn Bồ Tát có những điều cấm kị, bạn đừng bỏ qua nhé.
Bất Động Tôn Bồ Tát còn có tên tiếng Phạn là Acalanatha, nghĩa là Bất Động Tôn hay Vô Động Tôn. Giáo giới tôn ngài làm Bất Động Minh Vương, là sứ giả bất động. “Bất động” ở đây chỉ tâm từ bi bền vững không chút dao động lung lay, còn “Minh” chỉ ánh sáng trí tuệ.
Chỉ cần nhìn thấy Bất Động Tôn Bồ Tát là tự phát thiện tâm, nghe thấy tên là đoạn mọi ác tâm, nghe thấy pháp danh như được thêm trí tuệ, hiểu rõ tâm tư thì có cơ may thành Phật.
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Người sinh năm Tuất, năm Hợi có Phật độ mệnh là Phật A di đà, tượng trưng cho ánh sáng, phúc thọ, bảo hộ cho người tuổi Tuất, tuổi Hợi trí tuệ hơn người, xóa bỏ phiền não, mệt mỏi, kiên cường gây dựng cơ đồ, hưởng đời an lạc.
Phật A di đà còn có tên tiếng Phạn là Amitayusa (Vô Lượng Thọ), Amitaba (Vô Lượng Quang). Ngài còn được gọi là Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Quang, Phật Quan Tự Tại Vương, Cam Lộ Vương. Phật A di đà là giáo chủ trong giới Tây phương cực lạc, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tài hợp thành “Tây Phương Tam Thánh”.
Theo ghi chép cổ, từ thời xa xưa, Ngài vốn được giáo hóa bởi Phật Thế Tự Tại Vương, nguyện gây dựng Phật Quốc tận thiện tận mĩ (nơi cực lạc), dùng cách đi độ hóa chúng sinh, phát 48 lời thề nguyện, nhờ đó tu hành thành Phật A di đà. Những ai có cơ may gặp được Ngài thì có thể thoát khỏi mọi nỗi thống khổ trên đời.
Ngày Phật A di đà đản sinh: ngày 17 tháng 11 âm lịch. (Đây kì thực là ngày sinh của Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, tương truyền là đấng tái sinh của Phật A di đà.)
Các mẫu Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá tại cơ sở Tín Khôi:
Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết DCG19 – Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Mỗi người khi sinh ra đều được Phật đi theo phù hộ, tương ứng với từng năm sinh mà đức Phật độ mệnh cho mỗi người lại khác nhau. Vậy bạn đã biết Phật bản mệnh của từng con giáp là ai chưa?
Trong sách “Pháp uyển châu lâm” của nhà phật có viết: “Bên ngoài cõi Diêm Phù Đề, bên trong bốn biển có 12 loài thú được Bồ Tát giáo hóa. Khi cõi người mới sinh ra, Bồ Tát phân nhiệm vụ những loài thú này bảo vệ, nhận được lợi ích nên 12 con giáp cũng dựa vào đó để đặt ra…”. Mỗi con giáp sẽ thuộc quản lý và nhận được sự độ mệnh của một vị Phật khác nhau. Những vị phật này sẽ bảo hộ và mang đến may mắn, sức khỏe, thành công cho những con giáp này.
Phật độ mệnh không phân biệt giàu nghèo, giới tính. Vì thế nếu muốn cầu bình an, may mắn, thành công thì nên đeo vòng hoặc dây có hình vị phật độ mệnh cho con giáp của mình và làm việc tốt kết hợp cùng hướng tới vị phật bản mệnh để cầu phúc.
Phật bản mệnh được phân định theo tuổi (con giáp) như sau
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Tuổi Dậu: Bất Động Tôn Bồ Tát
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Tùy theo năm sinh mà ta phân định con giáp nào được Phật nào độ mệnh. Phật bản mệnh không thay đổi theo năm. Theo quan niệm dân gian, Phật bản mệnh sẽ bảo hộ cho bạn được bình an, cuộc sống thuận buồm xuôi gió.
Bạn nên biết Phật bản mệnh của mình là ai, điều đó sẽ giúp ích rất nhiều cho cuộc sống sau này của bạn. Đơn giản như khi đi chùa cầu an lễ Phật, ta biết hướng về ai kêu cầu, ước nguyện. Phật không phân sang hèn, không phân già trẻ, chỉ cần bạn thành tâm cầu khấn thì mỗi đức Phật đều có công đức vô lượng, có thể bảo hộ cho ta vượt mọi khó khăn. Bày tượng Phật bản mệnh hoặc đeo vòng có mặt hình tượng Phật bản mệnh, bạn sẽ có được bình an, may mắn và hạnh phúc như ý.
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Người sinh năm Tý có Phật độ mệnh là Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, biểu trưng cho đại từ đại bi. Ngài sẽ giúp bạn vượt qua được mọi khó khăn trong cuộc sống, có đủ ý chí và niềm tin để chiến thắng mọi bệnh tật. Khi vận may của bạn tìm đến, Ngài sẽ góp sức để vận thế của bạn thêm huy hoàng, xán lạn. Ngược lại, nếu bạn đang gặp vận rủi, Ngài sẽ giúp bạn hóa giải khó khăn, vượt qua hoạn nạn một cách để cuộc sống bình an, hạnh phúc và may mắn.
Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay là một trong tứ đại Bồ Tát. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay và Đại Thế Chí Bồ Tát là người phò trợ truyền bá Thánh pháp cho Phật A di đà. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cùng với Phật A di đà và Đại Thế Chí Bồ Tát hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
Điển tích Phật giáo có ghi chép lại, nghìn tay của Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dùng để cứu hộ chúng sinh, còn nghìn mắt để dõi khắp nhân gian. Sau thời nhà Đường ở Trung Quốc, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dần dần được rất nhiều chùa chiền thờ phụng. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thường lấy 42 cánh tay tượng trưng cho nghìn tay, trên mỗi cánh tay đều có một mắt.
Chữ “nghìn” trong Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thể hiện sự vô lượng và viên mãn, nghìn tay từ bi dang rộng cứu giúp chúng sinh, nghìn mắt trí tuệ soi thấu khắp cõi trần gian. Theo “Kinh Đà la ni”: Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay phổ độ chúng sinh, thỏa mãn mọi ước nguyện, giúp dân chúng sống đời an lạc.
Ngày Quan Âm nghìn mắt nghìn tay đản sinh: ngày 19 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Người sinh năm Sửu, năm Dần có Phật độ mệnh là Hư Không Tạng Bồ Tát, đại diện cho sự thành thực và sung túc. Bất hư bất không là Thần Tài của Phật giới, khi bạn mang theo mình mặt ngọc Hư Không Tạng Bồ Tát, ngài sẽ giúp bạn mở lối thoát nguy nan, tránh hao tài phá của, vận thế tài lộc tăng tiến không ngừng, lại càng thêm sinh tài tụ lộc, được Bát Phương quý nhân tương trợ, đánh đuổi tiểu nhân, tiền tài vượng phát.
Tên phiên âm theo tiếng Phạn của Hư Không Tạng Bồ Tát là Akasagarbha, mật danh là Khố Tạng Kim Cương. Hư Không Tạng Bồ Tát là Đệ nhất phù thần của Tam Thế Chư Phật, công đức khắp hư không, thông tuệ mọi điều trên thế gian này, có tâm nhẫn nhịn tựa kim cương, ý chí kiên cường như gió lớn, đẩy lùi mọi cám dỗ trên đời. Đọc thông “Hư Không Tạng chú” có thể giữ tâm kiên định, tăng cường trí nhớ, thúc đẩy chí tiến thủ.
Hư Không Tạng Bồ Tát có sức mạnh ban tạng niềm vui và tài lộc. “Tạng” thể hiện phúc đức trí tuệ vô biên, “Hư Không” thể hiện sự rộng lớn khôn cùng, “Đại phương đẳng đại tập kinh” có chỉ rõ: Hư Không Tạng tựa như phú ông, chúng sinh đói khổ chỉ cần đến trước mặt Bồ Tát kêu cầu là được cứu tế. Vì thế mà Hư Không Tạng Bồ Tát còn được biết đến là vị Bồ Tát coi cứu độ chúng sinh là niềm vui.
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Người sinh năm Mão có Phật độ mệnh là Văn Thù Bồ Tát, biểu trưng của đại trí tuệ, có thể thắp lên ánh sáng tinh thần, khai sáng tư duy, tăng cao ngộ tính. Ngài giúp cho đường học hành thuận lợi, hoạn lộ thênh thang, phúc lộc đầy nhà. Người tuổi Mão sẽ càng thêm sáng tạo, ý chí kiên cường, đủ sức cạnh tranh và chiến thắng đối phương, sự nghiệp thăng tiến không ngừng.
Danh xưng theo âm tiếng Phạn của Văn Thù Bồ Tát là Manjusri, hay còn gọi là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. “Đại Nhật kinh” ghi rằng: Diệu Cát Tường, Văn Thù hay Mạn Thù đều mang nghĩa chỉ điều kì diệu, còn Sư Lợi hay Thất Lợi có nghĩa là phúc đức hay cát tường, gọi đơn giản là Văn Thù.
Văn Thù Bồ Tát là thị giả theo hầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đại đệ tử của Đức Phật. Văn Thù Bồ Tát, Phật Thích Ca Mâu Ni và Phổ Hiền Bồ Tát được dân gian tôn là “Hoa Nghiêm Tam Thánh”. Văn Thù Bồ Tát là bậc đại trí dùng trí tuệ dẫn đường chúng sinh, tài năng đức độ đứng đầu trong các vị Bồ Tát, là biểu trưng cho trí tuệ.
Văn Thù Bồ Tát còn được gọi là Pháp Vương Tử, đại diện cho trí tuệ, mặc đồ màu tím vàng như Đồng tử, đỉnh đầu có 5 xoáy, tóc búi cao. Tay phải cầm Kim cương bảo kiếm (tượng trưng cho sự sắc bén của trí tuệ), có thể chém ma trừ tà, chặt đứt mọi nỗi muộn phiền. Tay phải cầm búp sen xanh, trong búp hoa có cuốn kinh Kim cương, tượng trưng cho trí tuệ vô thượng, cưỡi trên lưng sư tử (biểu trưng cho sức mạnh của trí tuệ).
Ngày Văn Thù Bồ Tát đản sinh: ngày 4 tháng 4 âm lịch.
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Người sinh năm Thìn, năm Tị có Phật độ mệnh là Phổ Hiền Bồ Tát, đại diện cho lý trí, đức độ và đại hành nguyện. Ngài sẽ đi theo phù hộ cho người tuổi Thìn, tuổi Tị hoàn thành ước nguyện, trừ bỏ tiểu nhân, tăng thêm khí thế, quyền uy của người lãnh đạo, giúp bạn cầu được ước thấy, hạnh phúc mỹ mãn.
Tên tiếng Phạn của Phổ Hiền Bồ Tát là Samantabhadra. Phổ Hiền Bồ Tát đi theo phù trợ, truyền bá Phật giáo cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng với Văn Thù Bồ Tát hợp thành “Hoa Nghiêm Tam Thánh”.
Phổ Hiền Bồ Tát có lời nguyện rằng: “Phổ hiền hành nguyện uy thần lực, phổ hiện nhất thiết như lai tiền”. Phổ Hiền Bồ Tát truyền bá Phật pháp thập phương công đức vô lượng, còn tu hành đạo hạnh vô thượng, có thể độ vô biên hữu tình, dùng trí tuệ để thỏa nguyện chúng sinh, giúp muôn dân biết đến đạo Phật.
Phổ Hiền Bồ Tát hành thiện vô số, phân thân trong tích tắc, tùy duyên giáo hóa chúng sinh. Dân gian còn gọi Ngài là Thập Đại Nguyện Vương, “Pháp Hoa kinh” ghi rằng: chỉ cần thành tâm tín phật là Phổ Hiền Bồ Tát cùng chư đại Bồ Tát sẽ cùng hiện thân bảo hộ, giúp cho thân tâm đều được an yên, xóa bỏ mọi ưu phiền, chẳng lo yêu ma quấy phá.
“Phổ Hiền diên mệnh kinh kí” nói rằng: Phổ Hiền Bồ Tát có sức mạnh vô cùng, có khả năng kéo dài tuổi thọ. Ngài là đại diện cho lễ đức và hành thiện, tượng trưng cho chân lý. Ngài dùng trí tuệ dẫn lối chúng sinh, dùng hành động để làm gương cho muôn dân, hoàn thành những ước nguyện của người cầu Phật, còn được dân chúng tôn làm “Đại hành Phổ Hiền Bồ Tát”.
Ngày Phổ Hiền Bồ Tát đản sinh: ngày 21 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Người sinh năm Ngọ có Phật độ mệnh là Đại Thế Chí Bồ Tát, ban cho người tuổi Ngọ ánh sáng trí tuệ, giúp đường đời được thuận buồm xuôi gió, sự nghiệp hanh thông. Ánh sáng vĩnh hằng Phật pháp sẽ hóa sát trừ hung, ban điều như ý cát tường, chỉ lối dẫn đường cho người tuổi Ngọ phát huy năng lực để đạt đến lý tưởng cao nhất.
Đại Thế Chí Bồ Tát là vị hành giả bên cạnh Phật A di đà, còn gọi là Đại Tinh Tiến Bồ Tát, gọi tắt là Thế Chí. Đại Thế Chí Bồ Tát cùng Phật A di đà và Quan Thế Âm Bồ Tát (Quan Âm nghìn mắt nghìn tay) hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
“Bi Hoa kinh” kể rằng trước đây có một vị chuyển luân Thánh Vương, đại thái tử là Quan Thế Âm Bồ Tát, nhị thái tử là Đại Thế Chí Bồ Tát, tam thái tử là Văn Thù Bồ Tát, tứ thái tử là Phổ Hiền Bồ Tát. Chuyển luân Thánh Vương về sau tu hành thành Phật, chính là Phật A di đà của giới Tây phương cực lạc, Quan Thế Âm Bồ Tát cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đi theo vua cha phò trợ tả hữu hai bên.
“Quan vô lượng thọ kinh” ghi rằng: Đại Thế Chí Bồ Tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp nhân gian, giúp chúng sinh thoát khỏi nạn đao binh cũng như thiên tai bão lụt, công đức vô lượng, uy thế vô biên. Đại Thế Chí Bồ Tát là ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh.
Ngày Đại Thế Chí Bồ Tát đản sinh: ngày 13 tháng 7 âm lịch.
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Người sinh năm Mùi, năm Thân có Phật độ mệnh là Đại Nhật Như Lai, Ngài là biểu tượng của ánh sáng và trí tuệ, giúp người tuổi Mùi, tuổi Thân luôn giữ được tinh thần minh mẫn, trừ yêu tránh tà, cảm nhận được tinh hoa vạn vật, hấp thu linh khí đất trời, vững vàng tiến lên phía trước, cuộc đời sáng lạn, hạnh phúc.
Đại Nhật Như Lai là tôn xưng chí cao vô thượng trong Phật giáo Mật tông, là Đức Phật cấp cao nhất trong Mật tông. Theo đó, tất cả các đức Phật và Bồ Tát đều do Đại Nhật Như Lai mà ra, Đại Nhật Như Lai đứng đầu chỉ huy tất cả, là đức Phật khởi sinh trong giới Phật giáo Mật tông.
“Đại nhật” có nghĩa là thắng cả mặt trời, Đại Nhật Như Lai có thể phá bỏ mọi tà pháp, xóa mọi trở ngại trong chốn nhân gian, công đức viên mãn, đem ánh sáng trí tuệ chiếu sáng muôn nơi, không còn đêm đen che giấu, khởi nguồn sinh sôi Phật Tâm. Ánh sáng trí tuệ của Đại Nhật Như Lai khơi gợi tâm thiện trong mỗi con người.
Tuổi Dậu: Bất Động Minh Vương
Người sinh năm Dậu có Phật độ mệnh là Bất Động Minh Vương – Bất Động Tôn Bồ Tát, tượng trưng cho lý trí, trí tuệ. Ngài sẽ thầm lặng đi theo bảo vệ, giúp cho người tuổi Dậu trên đường đời phân biệt phải trái đúng sai, nắm bắt cơ hội đến với mình, sử dụng trí tuệ để ứng phó với khó khăn, vượt qua nghịch cảnh, có được sự nghiệp thành công, gia đình hạnh phúc. Đeo tượng Phật bản mệnh Bất Động Tôn Bồ Tát có những điều cấm kị, bạn đừng bỏ qua nhé.
Bất Động Tôn Bồ Tát còn có tên tiếng Phạn là Acalanatha, nghĩa là Bất Động Tôn hay Vô Động Tôn. Giáo giới tôn ngài làm Bất Động Minh Vương, là sứ giả bất động. “Bất động” ở đây chỉ tâm từ bi bền vững không chút dao động lung lay, còn “Minh” chỉ ánh sáng trí tuệ.
Chỉ cần nhìn thấy Bất Động Tôn Bồ Tát là tự phát thiện tâm, nghe thấy tên là đoạn mọi ác tâm, nghe thấy pháp danh như được thêm trí tuệ, hiểu rõ tâm tư thì có cơ may thành Phật.
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Người sinh năm Tuất, năm Hợi có Phật độ mệnh là Phật A di đà, tượng trưng cho ánh sáng, phúc thọ, bảo hộ cho người tuổi Tuất, tuổi Hợi trí tuệ hơn người, xóa bỏ phiền não, mệt mỏi, kiên cường gây dựng cơ đồ, hưởng đời an lạc.
Phật A di đà còn có tên tiếng Phạn là Amitayusa (Vô Lượng Thọ), Amitaba (Vô Lượng Quang). Ngài còn được gọi là Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Quang, Phật Quan Tự Tại Vương, Cam Lộ Vương. Phật A di đà là giáo chủ trong giới Tây phương cực lạc, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tài hợp thành “Tây Phương Tam Thánh”.
Theo ghi chép cổ, từ thời xa xưa, Ngài vốn được giáo hóa bởi Phật Thế Tự Tại Vương, nguyện gây dựng Phật Quốc tận thiện tận mĩ (nơi cực lạc), dùng cách đi độ hóa chúng sinh, phát 48 lời thề nguyện, nhờ đó tu hành thành Phật A di đà. Những ai có cơ may gặp được Ngài thì có thể thoát khỏi mọi nỗi thống khổ trên đời.
Ngày Phật A di đà đản sinh: ngày 17 tháng 11 âm lịch. (Đây kì thực là ngày sinh của Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, tương truyền là đấng tái sinh của Phật A di đà.)
Các mẫu Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá tại cơ sở Tín Khôi:
Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết DCG21 – Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà ?
Vậy Rốt Cuộc Thì Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Không? Câu Trả Lời Chắc Chắn Là Có. Việc Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Sẽ Giúp Quý Phật Tử Được Nương Nhờ Vào Sự Đại Bi Của Ngài. Được Nương Vào Ngài Mà Học Theo Công Hạnh Của Ngài.
Và khi học theo công hạnh Địa Tạng Vương Bồ Tát, một cứu độ hết thảy chúng sanh thì tâm của quý vị sẽ bớt phiền não, chuyển thức thành trí, sớm ngày đắc Phật quả. Quý Phật tử nên hiểu và thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà, thờ Ngài ngoài việc được học theo hạnh độ của Ngài còn được Ngài phụ hộ giúp xua đuổi những vong linh quấy phá.
>>>>Xem Thêm:Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Một số lợi ích khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà:
Đối với cuộc sống hiện tại, nếu quý vị thành tâm nguyện cầu, tụng niệm danh hiệu Ngài sẽ được ban cho trí hệ lớn, những ước nguyện sớm ngày đạt được thành tựu. Bản thân cũng như gia đình sẽ được tiêu trừ hoạn nạn, tội chướng lẫn bệnh tật. Được Địa Tạng Vương Bồ Tát phù hộ tai qua nạn khỏi.
Đối với kiếp sau, khi thờ Địa Tạng Bồ Tát sẽ được Ngài phù hộ, kiếp sau tránh được khỏi thân nữ, được thân xinh đẹp, thoát khỏi kiếp nô lệ. Cuộc sống của kiếp sau sẽ an nhàn, sung túc, nghèo hèn tự đi xa.
Với những người sắp lâm chung, tụng kinh Địa Tạng và làm điều thiện sẽ giúp họ kéo dài thời gian sống. 49 ngày sau khi mất thường xuyên tụng kinh Địa Tạng sẽ giúp người quá cố sớm ngày siêu thoát.
Với những người đã quá vãng, thờ Địa Tạng Vương thì sẽ được siêu độ, gặp lại được người thân đã mất. Trong giấc ngủ thường gặp ma quỷ, người lạ, ác mộng, thì chí tâm tụng Địa Tạng Kinh sẽ được Ngài phù hộ cho an lành.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Kinh Phật có dạy rằng: “dốc lòng niệm tụng Bồ Tát Địa Tạng hoặc lễ bái cúng dường hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng thì xa lìa khổ não, không đọa ác đạo, thành tựu được 28 điều lợi ích. Trời rồng hộ niệm, quả lành ngày thêm lớn, chứa góp nhân vô lượng. Không lui sụt đạo giác ngộ, áo cơm đầy đủ, không bị bệnh dịch, khỏi nạn lửa nước. Không có giặc hại, người thấy cung kính, quỷ thần hộ trì…”
Ý Nghĩa Của Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương bồ tát, tay trái cầm như ý châu, tay phải cầm tích trượng có 6 vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi có nghĩa muốn cứu độ hết mọi chúng sinh trên thế gian. Sứ mệnh của Ngài – Địa Tạng Vương bồ tát là để cứu độ mọi chúng sinh từ trên trời cho tới địa ngục.
Bên cạnh ý nghĩa vĩ đại cứu độ hết thảy chúng sanh trong lục giới, tượng Địa Tạng Bồ Tát còn mang ý nghĩa sâu xa. Đó chính là biểu tượng cho tâm địa của mỗi chúng ta. Địa có nghĩa là mặt đất, Tạng có nghĩa là dung chứa. Mặt đất có thể dung chứa tất cả mọi vật, thì tâm con người cũng vậy, dung chứa cả cái thiện và cái ác. Bồ Tát Địa Tạng nguyện cứu độ mọi chúng sinh trong địa ngục mới thành Phật, cũng như người tu hành nguyện chuyển hóa tất cả những hạt giống xấu ác trong tâm thành điều thiện, như vậy cũng đã là thành Phật.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Cách Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà
Ông bà ta có câu “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Do đó, khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà quý Phật tử cũng nên lưu ý một số điều.
Về tượng Phật, quý vị Phật tử nên chọn những tôn tượng Địa Tạng Bồ Tát có diện mạo cân đối, gương mặt toát lên được sự từ bi hỷ xả. Không chọn những tôn tượng có khuôn mặt cau có, hay những bức tượng sứt mẻ, không hoàn thiện. Vì đây là điều thể hiện sự bất kính đối với Đức Phật.
Trước khi thờ Phật, quý vị cần phải lựa được ngày tốt. Bởi thỉnh Phật về thờ tại gia không phải chuyện đùa, việc này cần phải nghiêm túc, chấp hành đúng những lễ nghi cần thiết trước khi thờ Phật tại gia. Khi đặt Phật Địa Tạng lên bàn thờ thì không được để ngang hàng với bàn thờ gia tiên. Bàn thờ Phật phải được đặt cao hơn bàn thờ gia tiên.
Cúng Dường Địa Tạng Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá cưỡi thú
Kinh Địa Tạng chính là bộ Kinh đầu tiên Ngài Tuyên Hóa đọc được, Kinh Địa Tạng cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy giảng và đó cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy quỳ hành trì tụng. Ngài Tuyên Hóa từng nói: “những ai muốn thay đổi cuộc đời số mệnh của mình, những ai muốn được theo tôi qua bên Mỹ học tập ở Vạn Phật Thánh Thành dưới sự dẫn dắt của tôi, mà hiện tại chưa đủ điều kiện, chưa đủ khả năng. Học Kinh Địa Tạng, Ngài Đại Tạng sẽ gia hộ, các vị sẽ được đi theo tôi”. Quý Phật tử nào muốn thay đổi cuộc đời của mình thì hãy học thuộc Kinh Địa Tạng. Đây chính là Pháp cúng dường Địa Tạng Bồ Tát.
Những ai khuyên bảo mọi người theo Ngài Địa Tạng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng. Pháp cúng dường lớn hơn những vật cúng dường gấp trăm ngàn lần. Học 1 phẩm Kinh Địa Tạng cũng là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng, chép Kinh Địa Tạng cũng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng.
Khi con người mất đi, đọa xuống địa ngục, bị Diêm Vương kết tội. Nếu người đó từng học thuộc Kinh Địa Tạng, hay 1 phẩm hoặc 1 bài kệ trong đó thì sẽ được thả và không bị trách tội.
Kinh Địa Tạng phẩm thứ 12 có ghi lại rằng những người chí tâm quy y Ngài Địa Tạng từ kiếp này trở về sau vĩnh viễn không còn bị đọa vào 3 ác đạo, Ngài Địa Tạng sẽ bảo hộ cho.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá Trắng Trong Xanh – DT78 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà ?
Vậy Rốt Cuộc Thì Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Không? Câu Trả Lời Chắc Chắn Là Có. Việc Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Sẽ Giúp Quý Phật Tử Được Nương Nhờ Vào Sự Đại Bi Của Ngài. Được Nương Vào Ngài Mà Học Theo Công Hạnh Của Ngài.
Và khi học theo công hạnh Địa Tạng Vương Bồ Tát, một cứu độ hết thảy chúng sanh thì tâm của quý vị sẽ bớt phiền não, chuyển thức thành trí, sớm ngày đắc Phật quả. Quý Phật tử nên hiểu và thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà, thờ Ngài ngoài việc được học theo hạnh độ của Ngài còn được Ngài phụ hộ giúp xua đuổi những vong linh quấy phá.
>>>>Xem Thêm:Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Một số lợi ích khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà:
Đối với cuộc sống hiện tại, nếu quý vị thành tâm nguyện cầu, tụng niệm danh hiệu Ngài sẽ được ban cho trí hệ lớn, những ước nguyện sớm ngày đạt được thành tựu. Bản thân cũng như gia đình sẽ được tiêu trừ hoạn nạn, tội chướng lẫn bệnh tật. Được Địa Tạng Vương Bồ Tát phù hộ tai qua nạn khỏi.
Đối với kiếp sau, khi thờ Địa Tạng Bồ Tát sẽ được Ngài phù hộ, kiếp sau tránh được khỏi thân nữ, được thân xinh đẹp, thoát khỏi kiếp nô lệ. Cuộc sống của kiếp sau sẽ an nhàn, sung túc, nghèo hèn tự đi xa.
Với những người sắp lâm chung, tụng kinh Địa Tạng và làm điều thiện sẽ giúp họ kéo dài thời gian sống. 49 ngày sau khi mất thường xuyên tụng kinh Địa Tạng sẽ giúp người quá cố sớm ngày siêu thoát.
Với những người đã quá vãng, thờ Địa Tạng Vương thì sẽ được siêu độ, gặp lại được người thân đã mất. Trong giấc ngủ thường gặp ma quỷ, người lạ, ác mộng, thì chí tâm tụng Địa Tạng Kinh sẽ được Ngài phù hộ cho an lành.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Kinh Phật có dạy rằng: “dốc lòng niệm tụng Bồ Tát Địa Tạng hoặc lễ bái cúng dường hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng thì xa lìa khổ não, không đọa ác đạo, thành tựu được 28 điều lợi ích. Trời rồng hộ niệm, quả lành ngày thêm lớn, chứa góp nhân vô lượng. Không lui sụt đạo giác ngộ, áo cơm đầy đủ, không bị bệnh dịch, khỏi nạn lửa nước. Không có giặc hại, người thấy cung kính, quỷ thần hộ trì…”
Ý Nghĩa Của Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương bồ tát, tay trái cầm như ý châu, tay phải cầm tích trượng có 6 vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi có nghĩa muốn cứu độ hết mọi chúng sinh trên thế gian. Sứ mệnh của Ngài – Địa Tạng Vương bồ tát là để cứu độ mọi chúng sinh từ trên trời cho tới địa ngục.
Bên cạnh ý nghĩa vĩ đại cứu độ hết thảy chúng sanh trong lục giới, tượng Địa Tạng Bồ Tát còn mang ý nghĩa sâu xa. Đó chính là biểu tượng cho tâm địa của mỗi chúng ta. Địa có nghĩa là mặt đất, Tạng có nghĩa là dung chứa. Mặt đất có thể dung chứa tất cả mọi vật, thì tâm con người cũng vậy, dung chứa cả cái thiện và cái ác. Bồ Tát Địa Tạng nguyện cứu độ mọi chúng sinh trong địa ngục mới thành Phật, cũng như người tu hành nguyện chuyển hóa tất cả những hạt giống xấu ác trong tâm thành điều thiện, như vậy cũng đã là thành Phật.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Cách Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà
Ông bà ta có câu “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Do đó, khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà quý Phật tử cũng nên lưu ý một số điều.
Về tượng Phật, quý vị Phật tử nên chọn những tôn tượng Địa Tạng Bồ Tát có diện mạo cân đối, gương mặt toát lên được sự từ bi hỷ xả. Không chọn những tôn tượng có khuôn mặt cau có, hay những bức tượng sứt mẻ, không hoàn thiện. Vì đây là điều thể hiện sự bất kính đối với Đức Phật.
Trước khi thờ Phật, quý vị cần phải lựa được ngày tốt. Bởi thỉnh Phật về thờ tại gia không phải chuyện đùa, việc này cần phải nghiêm túc, chấp hành đúng những lễ nghi cần thiết trước khi thờ Phật tại gia. Khi đặt Phật Địa Tạng lên bàn thờ thì không được để ngang hàng với bàn thờ gia tiên. Bàn thờ Phật phải được đặt cao hơn bàn thờ gia tiên.
Cúng Dường Địa Tạng Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá cưỡi thú
Kinh Địa Tạng chính là bộ Kinh đầu tiên Ngài Tuyên Hóa đọc được, Kinh Địa Tạng cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy giảng và đó cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy quỳ hành trì tụng. Ngài Tuyên Hóa từng nói: “những ai muốn thay đổi cuộc đời số mệnh của mình, những ai muốn được theo tôi qua bên Mỹ học tập ở Vạn Phật Thánh Thành dưới sự dẫn dắt của tôi, mà hiện tại chưa đủ điều kiện, chưa đủ khả năng. Học Kinh Địa Tạng, Ngài Đại Tạng sẽ gia hộ, các vị sẽ được đi theo tôi”. Quý Phật tử nào muốn thay đổi cuộc đời của mình thì hãy học thuộc Kinh Địa Tạng. Đây chính là Pháp cúng dường Địa Tạng Bồ Tát.
Những ai khuyên bảo mọi người theo Ngài Địa Tạng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng. Pháp cúng dường lớn hơn những vật cúng dường gấp trăm ngàn lần. Học 1 phẩm Kinh Địa Tạng cũng là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng, chép Kinh Địa Tạng cũng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng.
Khi con người mất đi, đọa xuống địa ngục, bị Diêm Vương kết tội. Nếu người đó từng học thuộc Kinh Địa Tạng, hay 1 phẩm hoặc 1 bài kệ trong đó thì sẽ được thả và không bị trách tội.
Kinh Địa Tạng phẩm thứ 12 có ghi lại rằng những người chí tâm quy y Ngài Địa Tạng từ kiếp này trở về sau vĩnh viễn không còn bị đọa vào 3 ác đạo, Ngài Địa Tạng sẽ bảo hộ cho.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá – DT77 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà ?
Vậy Rốt Cuộc Thì Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Không? Câu Trả Lời Chắc Chắn Là Có. Việc Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Sẽ Giúp Quý Phật Tử Được Nương Nhờ Vào Sự Đại Bi Của Ngài. Được Nương Vào Ngài Mà Học Theo Công Hạnh Của Ngài.
Và khi học theo công hạnh Địa Tạng Vương Bồ Tát, một cứu độ hết thảy chúng sanh thì tâm của quý vị sẽ bớt phiền não, chuyển thức thành trí, sớm ngày đắc Phật quả. Quý Phật tử nên hiểu và thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà, thờ Ngài ngoài việc được học theo hạnh độ của Ngài còn được Ngài phụ hộ giúp xua đuổi những vong linh quấy phá.
>>>>Xem Thêm:Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Một số lợi ích khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà:
Đối với cuộc sống hiện tại, nếu quý vị thành tâm nguyện cầu, tụng niệm danh hiệu Ngài sẽ được ban cho trí hệ lớn, những ước nguyện sớm ngày đạt được thành tựu. Bản thân cũng như gia đình sẽ được tiêu trừ hoạn nạn, tội chướng lẫn bệnh tật. Được Địa Tạng Vương Bồ Tát phù hộ tai qua nạn khỏi.
Đối với kiếp sau, khi thờ Địa Tạng Bồ Tát sẽ được Ngài phù hộ, kiếp sau tránh được khỏi thân nữ, được thân xinh đẹp, thoát khỏi kiếp nô lệ. Cuộc sống của kiếp sau sẽ an nhàn, sung túc, nghèo hèn tự đi xa.
Với những người sắp lâm chung, tụng kinh Địa Tạng và làm điều thiện sẽ giúp họ kéo dài thời gian sống. 49 ngày sau khi mất thường xuyên tụng kinh Địa Tạng sẽ giúp người quá cố sớm ngày siêu thoát.
Với những người đã quá vãng, thờ Địa Tạng Vương thì sẽ được siêu độ, gặp lại được người thân đã mất. Trong giấc ngủ thường gặp ma quỷ, người lạ, ác mộng, thì chí tâm tụng Địa Tạng Kinh sẽ được Ngài phù hộ cho an lành.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Kinh Phật có dạy rằng: “dốc lòng niệm tụng Bồ Tát Địa Tạng hoặc lễ bái cúng dường hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng thì xa lìa khổ não, không đọa ác đạo, thành tựu được 28 điều lợi ích. Trời rồng hộ niệm, quả lành ngày thêm lớn, chứa góp nhân vô lượng. Không lui sụt đạo giác ngộ, áo cơm đầy đủ, không bị bệnh dịch, khỏi nạn lửa nước. Không có giặc hại, người thấy cung kính, quỷ thần hộ trì…”
Ý Nghĩa Của Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương bồ tát, tay trái cầm như ý châu, tay phải cầm tích trượng có 6 vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi có nghĩa muốn cứu độ hết mọi chúng sinh trên thế gian. Sứ mệnh của Ngài – Địa Tạng Vương bồ tát là để cứu độ mọi chúng sinh từ trên trời cho tới địa ngục.
Bên cạnh ý nghĩa vĩ đại cứu độ hết thảy chúng sanh trong lục giới, tượng Địa Tạng Bồ Tát còn mang ý nghĩa sâu xa. Đó chính là biểu tượng cho tâm địa của mỗi chúng ta. Địa có nghĩa là mặt đất, Tạng có nghĩa là dung chứa. Mặt đất có thể dung chứa tất cả mọi vật, thì tâm con người cũng vậy, dung chứa cả cái thiện và cái ác. Bồ Tát Địa Tạng nguyện cứu độ mọi chúng sinh trong địa ngục mới thành Phật, cũng như người tu hành nguyện chuyển hóa tất cả những hạt giống xấu ác trong tâm thành điều thiện, như vậy cũng đã là thành Phật.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Cách Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà
Ông bà ta có câu “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Do đó, khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà quý Phật tử cũng nên lưu ý một số điều.
Về tượng Phật, quý vị Phật tử nên chọn những tôn tượng Địa Tạng Bồ Tát có diện mạo cân đối, gương mặt toát lên được sự từ bi hỷ xả. Không chọn những tôn tượng có khuôn mặt cau có, hay những bức tượng sứt mẻ, không hoàn thiện. Vì đây là điều thể hiện sự bất kính đối với Đức Phật.
Trước khi thờ Phật, quý vị cần phải lựa được ngày tốt. Bởi thỉnh Phật về thờ tại gia không phải chuyện đùa, việc này cần phải nghiêm túc, chấp hành đúng những lễ nghi cần thiết trước khi thờ Phật tại gia. Khi đặt Phật Địa Tạng lên bàn thờ thì không được để ngang hàng với bàn thờ gia tiên. Bàn thờ Phật phải được đặt cao hơn bàn thờ gia tiên.
Cúng Dường Địa Tạng Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá cưỡi thú
Kinh Địa Tạng chính là bộ Kinh đầu tiên Ngài Tuyên Hóa đọc được, Kinh Địa Tạng cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy giảng và đó cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy quỳ hành trì tụng. Ngài Tuyên Hóa từng nói: “những ai muốn thay đổi cuộc đời số mệnh của mình, những ai muốn được theo tôi qua bên Mỹ học tập ở Vạn Phật Thánh Thành dưới sự dẫn dắt của tôi, mà hiện tại chưa đủ điều kiện, chưa đủ khả năng. Học Kinh Địa Tạng, Ngài Đại Tạng sẽ gia hộ, các vị sẽ được đi theo tôi”. Quý Phật tử nào muốn thay đổi cuộc đời của mình thì hãy học thuộc Kinh Địa Tạng. Đây chính là Pháp cúng dường Địa Tạng Bồ Tát.
Những ai khuyên bảo mọi người theo Ngài Địa Tạng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng. Pháp cúng dường lớn hơn những vật cúng dường gấp trăm ngàn lần. Học 1 phẩm Kinh Địa Tạng cũng là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng, chép Kinh Địa Tạng cũng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng.
Khi con người mất đi, đọa xuống địa ngục, bị Diêm Vương kết tội. Nếu người đó từng học thuộc Kinh Địa Tạng, hay 1 phẩm hoặc 1 bài kệ trong đó thì sẽ được thả và không bị trách tội.
Kinh Địa Tạng phẩm thứ 12 có ghi lại rằng những người chí tâm quy y Ngài Địa Tạng từ kiếp này trở về sau vĩnh viễn không còn bị đọa vào 3 ác đạo, Ngài Địa Tạng sẽ bảo hộ cho.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá – DT76 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Mỗi người khi sinh ra đều được Phật đi theo phù hộ, tương ứng với từng năm sinh mà đức Phật độ mệnh cho mỗi người lại khác nhau. Vậy bạn đã biết Phật bản mệnh của từng con giáp là ai chưa?
Trong sách “Pháp uyển châu lâm” của nhà phật có viết: “Bên ngoài cõi Diêm Phù Đề, bên trong bốn biển có 12 loài thú được Bồ Tát giáo hóa. Khi cõi người mới sinh ra, Bồ Tát phân nhiệm vụ những loài thú này bảo vệ, nhận được lợi ích nên 12 con giáp cũng dựa vào đó để đặt ra…”. Mỗi con giáp sẽ thuộc quản lý và nhận được sự độ mệnh của một vị Phật khác nhau. Những vị phật này sẽ bảo hộ và mang đến may mắn, sức khỏe, thành công cho những con giáp này.
Phật độ mệnh không phân biệt giàu nghèo, giới tính. Vì thế nếu muốn cầu bình an, may mắn, thành công thì nên đeo vòng hoặc dây có hình vị phật độ mệnh cho con giáp của mình và làm việc tốt kết hợp cùng hướng tới vị phật bản mệnh để cầu phúc.
Phật bản mệnh được phân định theo tuổi (con giáp) như sau
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Tuổi Dậu: Bất Động Tôn Bồ Tát
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Tùy theo năm sinh mà ta phân định con giáp nào được Phật nào độ mệnh. Phật bản mệnh không thay đổi theo năm. Theo quan niệm dân gian, Phật bản mệnh sẽ bảo hộ cho bạn được bình an, cuộc sống thuận buồm xuôi gió.
Bạn nên biết Phật bản mệnh của mình là ai, điều đó sẽ giúp ích rất nhiều cho cuộc sống sau này của bạn. Đơn giản như khi đi chùa cầu an lễ Phật, ta biết hướng về ai kêu cầu, ước nguyện. Phật không phân sang hèn, không phân già trẻ, chỉ cần bạn thành tâm cầu khấn thì mỗi đức Phật đều có công đức vô lượng, có thể bảo hộ cho ta vượt mọi khó khăn. Bày tượng Phật bản mệnh hoặc đeo vòng có mặt hình tượng Phật bản mệnh, bạn sẽ có được bình an, may mắn và hạnh phúc như ý.
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Người sinh năm Tý có Phật độ mệnh là Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, biểu trưng cho đại từ đại bi. Ngài sẽ giúp bạn vượt qua được mọi khó khăn trong cuộc sống, có đủ ý chí và niềm tin để chiến thắng mọi bệnh tật. Khi vận may của bạn tìm đến, Ngài sẽ góp sức để vận thế của bạn thêm huy hoàng, xán lạn. Ngược lại, nếu bạn đang gặp vận rủi, Ngài sẽ giúp bạn hóa giải khó khăn, vượt qua hoạn nạn một cách để cuộc sống bình an, hạnh phúc và may mắn.
Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay là một trong tứ đại Bồ Tát. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay và Đại Thế Chí Bồ Tát là người phò trợ truyền bá Thánh pháp cho Phật A di đà. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cùng với Phật A di đà và Đại Thế Chí Bồ Tát hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
Điển tích Phật giáo có ghi chép lại, nghìn tay của Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dùng để cứu hộ chúng sinh, còn nghìn mắt để dõi khắp nhân gian. Sau thời nhà Đường ở Trung Quốc, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dần dần được rất nhiều chùa chiền thờ phụng. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thường lấy 42 cánh tay tượng trưng cho nghìn tay, trên mỗi cánh tay đều có một mắt.
Chữ “nghìn” trong Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thể hiện sự vô lượng và viên mãn, nghìn tay từ bi dang rộng cứu giúp chúng sinh, nghìn mắt trí tuệ soi thấu khắp cõi trần gian. Theo “Kinh Đà la ni”: Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay phổ độ chúng sinh, thỏa mãn mọi ước nguyện, giúp dân chúng sống đời an lạc.
Ngày Quan Âm nghìn mắt nghìn tay đản sinh: ngày 19 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Người sinh năm Sửu, năm Dần có Phật độ mệnh là Hư Không Tạng Bồ Tát, đại diện cho sự thành thực và sung túc. Bất hư bất không là Thần Tài của Phật giới, khi bạn mang theo mình mặt ngọc Hư Không Tạng Bồ Tát, ngài sẽ giúp bạn mở lối thoát nguy nan, tránh hao tài phá của, vận thế tài lộc tăng tiến không ngừng, lại càng thêm sinh tài tụ lộc, được Bát Phương quý nhân tương trợ, đánh đuổi tiểu nhân, tiền tài vượng phát.
Tên phiên âm theo tiếng Phạn của Hư Không Tạng Bồ Tát là Akasagarbha, mật danh là Khố Tạng Kim Cương. Hư Không Tạng Bồ Tát là Đệ nhất phù thần của Tam Thế Chư Phật, công đức khắp hư không, thông tuệ mọi điều trên thế gian này, có tâm nhẫn nhịn tựa kim cương, ý chí kiên cường như gió lớn, đẩy lùi mọi cám dỗ trên đời. Đọc thông “Hư Không Tạng chú” có thể giữ tâm kiên định, tăng cường trí nhớ, thúc đẩy chí tiến thủ.
Hư Không Tạng Bồ Tát có sức mạnh ban tạng niềm vui và tài lộc. “Tạng” thể hiện phúc đức trí tuệ vô biên, “Hư Không” thể hiện sự rộng lớn khôn cùng, “Đại phương đẳng đại tập kinh” có chỉ rõ: Hư Không Tạng tựa như phú ông, chúng sinh đói khổ chỉ cần đến trước mặt Bồ Tát kêu cầu là được cứu tế. Vì thế mà Hư Không Tạng Bồ Tát còn được biết đến là vị Bồ Tát coi cứu độ chúng sinh là niềm vui.
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Người sinh năm Mão có Phật độ mệnh là Văn Thù Bồ Tát, biểu trưng của đại trí tuệ, có thể thắp lên ánh sáng tinh thần, khai sáng tư duy, tăng cao ngộ tính. Ngài giúp cho đường học hành thuận lợi, hoạn lộ thênh thang, phúc lộc đầy nhà. Người tuổi Mão sẽ càng thêm sáng tạo, ý chí kiên cường, đủ sức cạnh tranh và chiến thắng đối phương, sự nghiệp thăng tiến không ngừng.
Danh xưng theo âm tiếng Phạn của Văn Thù Bồ Tát là Manjusri, hay còn gọi là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. “Đại Nhật kinh” ghi rằng: Diệu Cát Tường, Văn Thù hay Mạn Thù đều mang nghĩa chỉ điều kì diệu, còn Sư Lợi hay Thất Lợi có nghĩa là phúc đức hay cát tường, gọi đơn giản là Văn Thù.
Văn Thù Bồ Tát là thị giả theo hầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đại đệ tử của Đức Phật. Văn Thù Bồ Tát, Phật Thích Ca Mâu Ni và Phổ Hiền Bồ Tát được dân gian tôn là “Hoa Nghiêm Tam Thánh”. Văn Thù Bồ Tát là bậc đại trí dùng trí tuệ dẫn đường chúng sinh, tài năng đức độ đứng đầu trong các vị Bồ Tát, là biểu trưng cho trí tuệ.
Văn Thù Bồ Tát còn được gọi là Pháp Vương Tử, đại diện cho trí tuệ, mặc đồ màu tím vàng như Đồng tử, đỉnh đầu có 5 xoáy, tóc búi cao. Tay phải cầm Kim cương bảo kiếm (tượng trưng cho sự sắc bén của trí tuệ), có thể chém ma trừ tà, chặt đứt mọi nỗi muộn phiền. Tay phải cầm búp sen xanh, trong búp hoa có cuốn kinh Kim cương, tượng trưng cho trí tuệ vô thượng, cưỡi trên lưng sư tử (biểu trưng cho sức mạnh của trí tuệ).
Ngày Văn Thù Bồ Tát đản sinh: ngày 4 tháng 4 âm lịch.
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Người sinh năm Thìn, năm Tị có Phật độ mệnh là Phổ Hiền Bồ Tát, đại diện cho lý trí, đức độ và đại hành nguyện. Ngài sẽ đi theo phù hộ cho người tuổi Thìn, tuổi Tị hoàn thành ước nguyện, trừ bỏ tiểu nhân, tăng thêm khí thế, quyền uy của người lãnh đạo, giúp bạn cầu được ước thấy, hạnh phúc mỹ mãn.
Tên tiếng Phạn của Phổ Hiền Bồ Tát là Samantabhadra. Phổ Hiền Bồ Tát đi theo phù trợ, truyền bá Phật giáo cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng với Văn Thù Bồ Tát hợp thành “Hoa Nghiêm Tam Thánh”.
Phổ Hiền Bồ Tát có lời nguyện rằng: “Phổ hiền hành nguyện uy thần lực, phổ hiện nhất thiết như lai tiền”. Phổ Hiền Bồ Tát truyền bá Phật pháp thập phương công đức vô lượng, còn tu hành đạo hạnh vô thượng, có thể độ vô biên hữu tình, dùng trí tuệ để thỏa nguyện chúng sinh, giúp muôn dân biết đến đạo Phật.
Phổ Hiền Bồ Tát hành thiện vô số, phân thân trong tích tắc, tùy duyên giáo hóa chúng sinh. Dân gian còn gọi Ngài là Thập Đại Nguyện Vương, “Pháp Hoa kinh” ghi rằng: chỉ cần thành tâm tín phật là Phổ Hiền Bồ Tát cùng chư đại Bồ Tát sẽ cùng hiện thân bảo hộ, giúp cho thân tâm đều được an yên, xóa bỏ mọi ưu phiền, chẳng lo yêu ma quấy phá.
“Phổ Hiền diên mệnh kinh kí” nói rằng: Phổ Hiền Bồ Tát có sức mạnh vô cùng, có khả năng kéo dài tuổi thọ. Ngài là đại diện cho lễ đức và hành thiện, tượng trưng cho chân lý. Ngài dùng trí tuệ dẫn lối chúng sinh, dùng hành động để làm gương cho muôn dân, hoàn thành những ước nguyện của người cầu Phật, còn được dân chúng tôn làm “Đại hành Phổ Hiền Bồ Tát”.
Ngày Phổ Hiền Bồ Tát đản sinh: ngày 21 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Người sinh năm Ngọ có Phật độ mệnh là Đại Thế Chí Bồ Tát, ban cho người tuổi Ngọ ánh sáng trí tuệ, giúp đường đời được thuận buồm xuôi gió, sự nghiệp hanh thông. Ánh sáng vĩnh hằng Phật pháp sẽ hóa sát trừ hung, ban điều như ý cát tường, chỉ lối dẫn đường cho người tuổi Ngọ phát huy năng lực để đạt đến lý tưởng cao nhất.
Đại Thế Chí Bồ Tát là vị hành giả bên cạnh Phật A di đà, còn gọi là Đại Tinh Tiến Bồ Tát, gọi tắt là Thế Chí. Đại Thế Chí Bồ Tát cùng Phật A di đà và Quan Thế Âm Bồ Tát (Quan Âm nghìn mắt nghìn tay) hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
“Bi Hoa kinh” kể rằng trước đây có một vị chuyển luân Thánh Vương, đại thái tử là Quan Thế Âm Bồ Tát, nhị thái tử là Đại Thế Chí Bồ Tát, tam thái tử là Văn Thù Bồ Tát, tứ thái tử là Phổ Hiền Bồ Tát. Chuyển luân Thánh Vương về sau tu hành thành Phật, chính là Phật A di đà của giới Tây phương cực lạc, Quan Thế Âm Bồ Tát cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đi theo vua cha phò trợ tả hữu hai bên.
“Quan vô lượng thọ kinh” ghi rằng: Đại Thế Chí Bồ Tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp nhân gian, giúp chúng sinh thoát khỏi nạn đao binh cũng như thiên tai bão lụt, công đức vô lượng, uy thế vô biên. Đại Thế Chí Bồ Tát là ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh.
Ngày Đại Thế Chí Bồ Tát đản sinh: ngày 13 tháng 7 âm lịch.
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Người sinh năm Mùi, năm Thân có Phật độ mệnh là Đại Nhật Như Lai, Ngài là biểu tượng của ánh sáng và trí tuệ, giúp người tuổi Mùi, tuổi Thân luôn giữ được tinh thần minh mẫn, trừ yêu tránh tà, cảm nhận được tinh hoa vạn vật, hấp thu linh khí đất trời, vững vàng tiến lên phía trước, cuộc đời sáng lạn, hạnh phúc.
Đại Nhật Như Lai là tôn xưng chí cao vô thượng trong Phật giáo Mật tông, là Đức Phật cấp cao nhất trong Mật tông. Theo đó, tất cả các đức Phật và Bồ Tát đều do Đại Nhật Như Lai mà ra, Đại Nhật Như Lai đứng đầu chỉ huy tất cả, là đức Phật khởi sinh trong giới Phật giáo Mật tông.
“Đại nhật” có nghĩa là thắng cả mặt trời, Đại Nhật Như Lai có thể phá bỏ mọi tà pháp, xóa mọi trở ngại trong chốn nhân gian, công đức viên mãn, đem ánh sáng trí tuệ chiếu sáng muôn nơi, không còn đêm đen che giấu, khởi nguồn sinh sôi Phật Tâm. Ánh sáng trí tuệ của Đại Nhật Như Lai khơi gợi tâm thiện trong mỗi con người.
Tuổi Dậu: Bất Động Minh Vương
Người sinh năm Dậu có Phật độ mệnh là Bất Động Minh Vương – Bất Động Tôn Bồ Tát, tượng trưng cho lý trí, trí tuệ. Ngài sẽ thầm lặng đi theo bảo vệ, giúp cho người tuổi Dậu trên đường đời phân biệt phải trái đúng sai, nắm bắt cơ hội đến với mình, sử dụng trí tuệ để ứng phó với khó khăn, vượt qua nghịch cảnh, có được sự nghiệp thành công, gia đình hạnh phúc. Đeo tượng Phật bản mệnh Bất Động Tôn Bồ Tát có những điều cấm kị, bạn đừng bỏ qua nhé.
Bất Động Tôn Bồ Tát còn có tên tiếng Phạn là Acalanatha, nghĩa là Bất Động Tôn hay Vô Động Tôn. Giáo giới tôn ngài làm Bất Động Minh Vương, là sứ giả bất động. “Bất động” ở đây chỉ tâm từ bi bền vững không chút dao động lung lay, còn “Minh” chỉ ánh sáng trí tuệ.
Chỉ cần nhìn thấy Bất Động Tôn Bồ Tát là tự phát thiện tâm, nghe thấy tên là đoạn mọi ác tâm, nghe thấy pháp danh như được thêm trí tuệ, hiểu rõ tâm tư thì có cơ may thành Phật.
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Người sinh năm Tuất, năm Hợi có Phật độ mệnh là Phật A di đà, tượng trưng cho ánh sáng, phúc thọ, bảo hộ cho người tuổi Tuất, tuổi Hợi trí tuệ hơn người, xóa bỏ phiền não, mệt mỏi, kiên cường gây dựng cơ đồ, hưởng đời an lạc.
Phật A di đà còn có tên tiếng Phạn là Amitayusa (Vô Lượng Thọ), Amitaba (Vô Lượng Quang). Ngài còn được gọi là Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Quang, Phật Quan Tự Tại Vương, Cam Lộ Vương. Phật A di đà là giáo chủ trong giới Tây phương cực lạc, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tài hợp thành “Tây Phương Tam Thánh”.
Theo ghi chép cổ, từ thời xa xưa, Ngài vốn được giáo hóa bởi Phật Thế Tự Tại Vương, nguyện gây dựng Phật Quốc tận thiện tận mĩ (nơi cực lạc), dùng cách đi độ hóa chúng sinh, phát 48 lời thề nguyện, nhờ đó tu hành thành Phật A di đà. Những ai có cơ may gặp được Ngài thì có thể thoát khỏi mọi nỗi thống khổ trên đời.
Ngày Phật A di đà đản sinh: ngày 17 tháng 11 âm lịch. (Đây kì thực là ngày sinh của Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, tương truyền là đấng tái sinh của Phật A di đà.)
Các mẫu Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá tại cơ sở Tín Khôi:
Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết DCG15 – Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà ?
Vậy Rốt Cuộc Thì Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Không? Câu Trả Lời Chắc Chắn Là Có. Việc Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Sẽ Giúp Quý Phật Tử Được Nương Nhờ Vào Sự Đại Bi Của Ngài. Được Nương Vào Ngài Mà Học Theo Công Hạnh Của Ngài.
Và khi học theo công hạnh Địa Tạng Vương Bồ Tát, một cứu độ hết thảy chúng sanh thì tâm của quý vị sẽ bớt phiền não, chuyển thức thành trí, sớm ngày đắc Phật quả. Quý Phật tử nên hiểu và thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà, thờ Ngài ngoài việc được học theo hạnh độ của Ngài còn được Ngài phụ hộ giúp xua đuổi những vong linh quấy phá.
>>>>Xem Thêm:Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Một số lợi ích khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà:
Đối với cuộc sống hiện tại, nếu quý vị thành tâm nguyện cầu, tụng niệm danh hiệu Ngài sẽ được ban cho trí hệ lớn, những ước nguyện sớm ngày đạt được thành tựu. Bản thân cũng như gia đình sẽ được tiêu trừ hoạn nạn, tội chướng lẫn bệnh tật. Được Địa Tạng Vương Bồ Tát phù hộ tai qua nạn khỏi.
Đối với kiếp sau, khi thờ Địa Tạng Bồ Tát sẽ được Ngài phù hộ, kiếp sau tránh được khỏi thân nữ, được thân xinh đẹp, thoát khỏi kiếp nô lệ. Cuộc sống của kiếp sau sẽ an nhàn, sung túc, nghèo hèn tự đi xa.
Với những người sắp lâm chung, tụng kinh Địa Tạng và làm điều thiện sẽ giúp họ kéo dài thời gian sống. 49 ngày sau khi mất thường xuyên tụng kinh Địa Tạng sẽ giúp người quá cố sớm ngày siêu thoát.
Với những người đã quá vãng, thờ Địa Tạng Vương thì sẽ được siêu độ, gặp lại được người thân đã mất. Trong giấc ngủ thường gặp ma quỷ, người lạ, ác mộng, thì chí tâm tụng Địa Tạng Kinh sẽ được Ngài phù hộ cho an lành.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Kinh Phật có dạy rằng: “dốc lòng niệm tụng Bồ Tát Địa Tạng hoặc lễ bái cúng dường hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng thì xa lìa khổ não, không đọa ác đạo, thành tựu được 28 điều lợi ích. Trời rồng hộ niệm, quả lành ngày thêm lớn, chứa góp nhân vô lượng. Không lui sụt đạo giác ngộ, áo cơm đầy đủ, không bị bệnh dịch, khỏi nạn lửa nước. Không có giặc hại, người thấy cung kính, quỷ thần hộ trì…”
Ý Nghĩa Của Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương bồ tát, tay trái cầm như ý châu, tay phải cầm tích trượng có 6 vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi có nghĩa muốn cứu độ hết mọi chúng sinh trên thế gian. Sứ mệnh của Ngài – Địa Tạng Vương bồ tát là để cứu độ mọi chúng sinh từ trên trời cho tới địa ngục.
Bên cạnh ý nghĩa vĩ đại cứu độ hết thảy chúng sanh trong lục giới, tượng Địa Tạng Bồ Tát còn mang ý nghĩa sâu xa. Đó chính là biểu tượng cho tâm địa của mỗi chúng ta. Địa có nghĩa là mặt đất, Tạng có nghĩa là dung chứa. Mặt đất có thể dung chứa tất cả mọi vật, thì tâm con người cũng vậy, dung chứa cả cái thiện và cái ác. Bồ Tát Địa Tạng nguyện cứu độ mọi chúng sinh trong địa ngục mới thành Phật, cũng như người tu hành nguyện chuyển hóa tất cả những hạt giống xấu ác trong tâm thành điều thiện, như vậy cũng đã là thành Phật.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Cách Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà
Ông bà ta có câu “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Do đó, khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà quý Phật tử cũng nên lưu ý một số điều.
Về tượng Phật, quý vị Phật tử nên chọn những tôn tượng Địa Tạng Bồ Tát có diện mạo cân đối, gương mặt toát lên được sự từ bi hỷ xả. Không chọn những tôn tượng có khuôn mặt cau có, hay những bức tượng sứt mẻ, không hoàn thiện. Vì đây là điều thể hiện sự bất kính đối với Đức Phật.
Trước khi thờ Phật, quý vị cần phải lựa được ngày tốt. Bởi thỉnh Phật về thờ tại gia không phải chuyện đùa, việc này cần phải nghiêm túc, chấp hành đúng những lễ nghi cần thiết trước khi thờ Phật tại gia. Khi đặt Phật Địa Tạng lên bàn thờ thì không được để ngang hàng với bàn thờ gia tiên. Bàn thờ Phật phải được đặt cao hơn bàn thờ gia tiên.
Cúng Dường Địa Tạng Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá cưỡi thú
Kinh Địa Tạng chính là bộ Kinh đầu tiên Ngài Tuyên Hóa đọc được, Kinh Địa Tạng cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy giảng và đó cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy quỳ hành trì tụng. Ngài Tuyên Hóa từng nói: “những ai muốn thay đổi cuộc đời số mệnh của mình, những ai muốn được theo tôi qua bên Mỹ học tập ở Vạn Phật Thánh Thành dưới sự dẫn dắt của tôi, mà hiện tại chưa đủ điều kiện, chưa đủ khả năng. Học Kinh Địa Tạng, Ngài Đại Tạng sẽ gia hộ, các vị sẽ được đi theo tôi”. Quý Phật tử nào muốn thay đổi cuộc đời của mình thì hãy học thuộc Kinh Địa Tạng. Đây chính là Pháp cúng dường Địa Tạng Bồ Tát.
Những ai khuyên bảo mọi người theo Ngài Địa Tạng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng. Pháp cúng dường lớn hơn những vật cúng dường gấp trăm ngàn lần. Học 1 phẩm Kinh Địa Tạng cũng là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng, chép Kinh Địa Tạng cũng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng.
Khi con người mất đi, đọa xuống địa ngục, bị Diêm Vương kết tội. Nếu người đó từng học thuộc Kinh Địa Tạng, hay 1 phẩm hoặc 1 bài kệ trong đó thì sẽ được thả và không bị trách tội.
Kinh Địa Tạng phẩm thứ 12 có ghi lại rằng những người chí tâm quy y Ngài Địa Tạng từ kiếp này trở về sau vĩnh viễn không còn bị đọa vào 3 ác đạo, Ngài Địa Tạng sẽ bảo hộ cho.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá – DT68 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà ?
Vậy Rốt Cuộc Thì Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Không? Câu Trả Lời Chắc Chắn Là Có. Việc Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Sẽ Giúp Quý Phật Tử Được Nương Nhờ Vào Sự Đại Bi Của Ngài. Được Nương Vào Ngài Mà Học Theo Công Hạnh Của Ngài.
Và khi học theo công hạnh Địa Tạng Vương Bồ Tát, một cứu độ hết thảy chúng sanh thì tâm của quý vị sẽ bớt phiền não, chuyển thức thành trí, sớm ngày đắc Phật quả. Quý Phật tử nên hiểu và thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà, thờ Ngài ngoài việc được học theo hạnh độ của Ngài còn được Ngài phụ hộ giúp xua đuổi những vong linh quấy phá.
>>>>Xem Thêm:Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Một số lợi ích khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà:
Đối với cuộc sống hiện tại, nếu quý vị thành tâm nguyện cầu, tụng niệm danh hiệu Ngài sẽ được ban cho trí hệ lớn, những ước nguyện sớm ngày đạt được thành tựu. Bản thân cũng như gia đình sẽ được tiêu trừ hoạn nạn, tội chướng lẫn bệnh tật. Được Địa Tạng Vương Bồ Tát phù hộ tai qua nạn khỏi.
Đối với kiếp sau, khi thờ Địa Tạng Bồ Tát sẽ được Ngài phù hộ, kiếp sau tránh được khỏi thân nữ, được thân xinh đẹp, thoát khỏi kiếp nô lệ. Cuộc sống của kiếp sau sẽ an nhàn, sung túc, nghèo hèn tự đi xa.
Với những người sắp lâm chung, tụng kinh Địa Tạng và làm điều thiện sẽ giúp họ kéo dài thời gian sống. 49 ngày sau khi mất thường xuyên tụng kinh Địa Tạng sẽ giúp người quá cố sớm ngày siêu thoát.
Với những người đã quá vãng, thờ Địa Tạng Vương thì sẽ được siêu độ, gặp lại được người thân đã mất. Trong giấc ngủ thường gặp ma quỷ, người lạ, ác mộng, thì chí tâm tụng Địa Tạng Kinh sẽ được Ngài phù hộ cho an lành.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Kinh Phật có dạy rằng: “dốc lòng niệm tụng Bồ Tát Địa Tạng hoặc lễ bái cúng dường hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng thì xa lìa khổ não, không đọa ác đạo, thành tựu được 28 điều lợi ích. Trời rồng hộ niệm, quả lành ngày thêm lớn, chứa góp nhân vô lượng. Không lui sụt đạo giác ngộ, áo cơm đầy đủ, không bị bệnh dịch, khỏi nạn lửa nước. Không có giặc hại, người thấy cung kính, quỷ thần hộ trì…”
Ý Nghĩa Của Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương bồ tát, tay trái cầm như ý châu, tay phải cầm tích trượng có 6 vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi có nghĩa muốn cứu độ hết mọi chúng sinh trên thế gian. Sứ mệnh của Ngài – Địa Tạng Vương bồ tát là để cứu độ mọi chúng sinh từ trên trời cho tới địa ngục.
Bên cạnh ý nghĩa vĩ đại cứu độ hết thảy chúng sanh trong lục giới, tượng Địa Tạng Bồ Tát còn mang ý nghĩa sâu xa. Đó chính là biểu tượng cho tâm địa của mỗi chúng ta. Địa có nghĩa là mặt đất, Tạng có nghĩa là dung chứa. Mặt đất có thể dung chứa tất cả mọi vật, thì tâm con người cũng vậy, dung chứa cả cái thiện và cái ác. Bồ Tát Địa Tạng nguyện cứu độ mọi chúng sinh trong địa ngục mới thành Phật, cũng như người tu hành nguyện chuyển hóa tất cả những hạt giống xấu ác trong tâm thành điều thiện, như vậy cũng đã là thành Phật.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Cách Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà
Ông bà ta có câu “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Do đó, khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà quý Phật tử cũng nên lưu ý một số điều.
Về tượng Phật, quý vị Phật tử nên chọn những tôn tượng Địa Tạng Bồ Tát có diện mạo cân đối, gương mặt toát lên được sự từ bi hỷ xả. Không chọn những tôn tượng có khuôn mặt cau có, hay những bức tượng sứt mẻ, không hoàn thiện. Vì đây là điều thể hiện sự bất kính đối với Đức Phật.
Trước khi thờ Phật, quý vị cần phải lựa được ngày tốt. Bởi thỉnh Phật về thờ tại gia không phải chuyện đùa, việc này cần phải nghiêm túc, chấp hành đúng những lễ nghi cần thiết trước khi thờ Phật tại gia. Khi đặt Phật Địa Tạng lên bàn thờ thì không được để ngang hàng với bàn thờ gia tiên. Bàn thờ Phật phải được đặt cao hơn bàn thờ gia tiên.
Cúng Dường Địa Tạng Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá cưỡi thú
Kinh Địa Tạng chính là bộ Kinh đầu tiên Ngài Tuyên Hóa đọc được, Kinh Địa Tạng cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy giảng và đó cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy quỳ hành trì tụng. Ngài Tuyên Hóa từng nói: “những ai muốn thay đổi cuộc đời số mệnh của mình, những ai muốn được theo tôi qua bên Mỹ học tập ở Vạn Phật Thánh Thành dưới sự dẫn dắt của tôi, mà hiện tại chưa đủ điều kiện, chưa đủ khả năng. Học Kinh Địa Tạng, Ngài Đại Tạng sẽ gia hộ, các vị sẽ được đi theo tôi”. Quý Phật tử nào muốn thay đổi cuộc đời của mình thì hãy học thuộc Kinh Địa Tạng. Đây chính là Pháp cúng dường Địa Tạng Bồ Tát.
Những ai khuyên bảo mọi người theo Ngài Địa Tạng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng. Pháp cúng dường lớn hơn những vật cúng dường gấp trăm ngàn lần. Học 1 phẩm Kinh Địa Tạng cũng là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng, chép Kinh Địa Tạng cũng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng.
Khi con người mất đi, đọa xuống địa ngục, bị Diêm Vương kết tội. Nếu người đó từng học thuộc Kinh Địa Tạng, hay 1 phẩm hoặc 1 bài kệ trong đó thì sẽ được thả và không bị trách tội.
Kinh Địa Tạng phẩm thứ 12 có ghi lại rằng những người chí tâm quy y Ngài Địa Tạng từ kiếp này trở về sau vĩnh viễn không còn bị đọa vào 3 ác đạo, Ngài Địa Tạng sẽ bảo hộ cho.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Cưỡi Thú Bằng Đá – DT74 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Mỗi người khi sinh ra đều được Phật đi theo phù hộ, tương ứng với từng năm sinh mà đức Phật độ mệnh cho mỗi người lại khác nhau. Vậy bạn đã biết Phật bản mệnh của từng con giáp là ai chưa?
Trong sách “Pháp uyển châu lâm” của nhà phật có viết: “Bên ngoài cõi Diêm Phù Đề, bên trong bốn biển có 12 loài thú được Bồ Tát giáo hóa. Khi cõi người mới sinh ra, Bồ Tát phân nhiệm vụ những loài thú này bảo vệ, nhận được lợi ích nên 12 con giáp cũng dựa vào đó để đặt ra…”. Mỗi con giáp sẽ thuộc quản lý và nhận được sự độ mệnh của một vị Phật khác nhau. Những vị phật này sẽ bảo hộ và mang đến may mắn, sức khỏe, thành công cho những con giáp này.
Phật độ mệnh không phân biệt giàu nghèo, giới tính. Vì thế nếu muốn cầu bình an, may mắn, thành công thì nên đeo vòng hoặc dây có hình vị phật độ mệnh cho con giáp của mình và làm việc tốt kết hợp cùng hướng tới vị phật bản mệnh để cầu phúc.
Phật bản mệnh được phân định theo tuổi (con giáp) như sau
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Tuổi Dậu: Bất Động Tôn Bồ Tát
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Tùy theo năm sinh mà ta phân định con giáp nào được Phật nào độ mệnh. Phật bản mệnh không thay đổi theo năm. Theo quan niệm dân gian, Phật bản mệnh sẽ bảo hộ cho bạn được bình an, cuộc sống thuận buồm xuôi gió.
Bạn nên biết Phật bản mệnh của mình là ai, điều đó sẽ giúp ích rất nhiều cho cuộc sống sau này của bạn. Đơn giản như khi đi chùa cầu an lễ Phật, ta biết hướng về ai kêu cầu, ước nguyện. Phật không phân sang hèn, không phân già trẻ, chỉ cần bạn thành tâm cầu khấn thì mỗi đức Phật đều có công đức vô lượng, có thể bảo hộ cho ta vượt mọi khó khăn. Bày tượng Phật bản mệnh hoặc đeo vòng có mặt hình tượng Phật bản mệnh, bạn sẽ có được bình an, may mắn và hạnh phúc như ý.
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Người sinh năm Tý có Phật độ mệnh là Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, biểu trưng cho đại từ đại bi. Ngài sẽ giúp bạn vượt qua được mọi khó khăn trong cuộc sống, có đủ ý chí và niềm tin để chiến thắng mọi bệnh tật. Khi vận may của bạn tìm đến, Ngài sẽ góp sức để vận thế của bạn thêm huy hoàng, xán lạn. Ngược lại, nếu bạn đang gặp vận rủi, Ngài sẽ giúp bạn hóa giải khó khăn, vượt qua hoạn nạn một cách để cuộc sống bình an, hạnh phúc và may mắn.
Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay là một trong tứ đại Bồ Tát. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay và Đại Thế Chí Bồ Tát là người phò trợ truyền bá Thánh pháp cho Phật A di đà. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cùng với Phật A di đà và Đại Thế Chí Bồ Tát hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
Điển tích Phật giáo có ghi chép lại, nghìn tay của Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dùng để cứu hộ chúng sinh, còn nghìn mắt để dõi khắp nhân gian. Sau thời nhà Đường ở Trung Quốc, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dần dần được rất nhiều chùa chiền thờ phụng. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thường lấy 42 cánh tay tượng trưng cho nghìn tay, trên mỗi cánh tay đều có một mắt.
Chữ “nghìn” trong Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thể hiện sự vô lượng và viên mãn, nghìn tay từ bi dang rộng cứu giúp chúng sinh, nghìn mắt trí tuệ soi thấu khắp cõi trần gian. Theo “Kinh Đà la ni”: Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay phổ độ chúng sinh, thỏa mãn mọi ước nguyện, giúp dân chúng sống đời an lạc.
Ngày Quan Âm nghìn mắt nghìn tay đản sinh: ngày 19 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Người sinh năm Sửu, năm Dần có Phật độ mệnh là Hư Không Tạng Bồ Tát, đại diện cho sự thành thực và sung túc. Bất hư bất không là Thần Tài của Phật giới, khi bạn mang theo mình mặt ngọc Hư Không Tạng Bồ Tát, ngài sẽ giúp bạn mở lối thoát nguy nan, tránh hao tài phá của, vận thế tài lộc tăng tiến không ngừng, lại càng thêm sinh tài tụ lộc, được Bát Phương quý nhân tương trợ, đánh đuổi tiểu nhân, tiền tài vượng phát.
Tên phiên âm theo tiếng Phạn của Hư Không Tạng Bồ Tát là Akasagarbha, mật danh là Khố Tạng Kim Cương. Hư Không Tạng Bồ Tát là Đệ nhất phù thần của Tam Thế Chư Phật, công đức khắp hư không, thông tuệ mọi điều trên thế gian này, có tâm nhẫn nhịn tựa kim cương, ý chí kiên cường như gió lớn, đẩy lùi mọi cám dỗ trên đời. Đọc thông “Hư Không Tạng chú” có thể giữ tâm kiên định, tăng cường trí nhớ, thúc đẩy chí tiến thủ.
Hư Không Tạng Bồ Tát có sức mạnh ban tạng niềm vui và tài lộc. “Tạng” thể hiện phúc đức trí tuệ vô biên, “Hư Không” thể hiện sự rộng lớn khôn cùng, “Đại phương đẳng đại tập kinh” có chỉ rõ: Hư Không Tạng tựa như phú ông, chúng sinh đói khổ chỉ cần đến trước mặt Bồ Tát kêu cầu là được cứu tế. Vì thế mà Hư Không Tạng Bồ Tát còn được biết đến là vị Bồ Tát coi cứu độ chúng sinh là niềm vui.
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Người sinh năm Mão có Phật độ mệnh là Văn Thù Bồ Tát, biểu trưng của đại trí tuệ, có thể thắp lên ánh sáng tinh thần, khai sáng tư duy, tăng cao ngộ tính. Ngài giúp cho đường học hành thuận lợi, hoạn lộ thênh thang, phúc lộc đầy nhà. Người tuổi Mão sẽ càng thêm sáng tạo, ý chí kiên cường, đủ sức cạnh tranh và chiến thắng đối phương, sự nghiệp thăng tiến không ngừng.
Danh xưng theo âm tiếng Phạn của Văn Thù Bồ Tát là Manjusri, hay còn gọi là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. “Đại Nhật kinh” ghi rằng: Diệu Cát Tường, Văn Thù hay Mạn Thù đều mang nghĩa chỉ điều kì diệu, còn Sư Lợi hay Thất Lợi có nghĩa là phúc đức hay cát tường, gọi đơn giản là Văn Thù.
Văn Thù Bồ Tát là thị giả theo hầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đại đệ tử của Đức Phật. Văn Thù Bồ Tát, Phật Thích Ca Mâu Ni và Phổ Hiền Bồ Tát được dân gian tôn là “Hoa Nghiêm Tam Thánh”. Văn Thù Bồ Tát là bậc đại trí dùng trí tuệ dẫn đường chúng sinh, tài năng đức độ đứng đầu trong các vị Bồ Tát, là biểu trưng cho trí tuệ.
Văn Thù Bồ Tát còn được gọi là Pháp Vương Tử, đại diện cho trí tuệ, mặc đồ màu tím vàng như Đồng tử, đỉnh đầu có 5 xoáy, tóc búi cao. Tay phải cầm Kim cương bảo kiếm (tượng trưng cho sự sắc bén của trí tuệ), có thể chém ma trừ tà, chặt đứt mọi nỗi muộn phiền. Tay phải cầm búp sen xanh, trong búp hoa có cuốn kinh Kim cương, tượng trưng cho trí tuệ vô thượng, cưỡi trên lưng sư tử (biểu trưng cho sức mạnh của trí tuệ).
Ngày Văn Thù Bồ Tát đản sinh: ngày 4 tháng 4 âm lịch.
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Người sinh năm Thìn, năm Tị có Phật độ mệnh là Phổ Hiền Bồ Tát, đại diện cho lý trí, đức độ và đại hành nguyện. Ngài sẽ đi theo phù hộ cho người tuổi Thìn, tuổi Tị hoàn thành ước nguyện, trừ bỏ tiểu nhân, tăng thêm khí thế, quyền uy của người lãnh đạo, giúp bạn cầu được ước thấy, hạnh phúc mỹ mãn.
Tên tiếng Phạn của Phổ Hiền Bồ Tát là Samantabhadra. Phổ Hiền Bồ Tát đi theo phù trợ, truyền bá Phật giáo cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng với Văn Thù Bồ Tát hợp thành “Hoa Nghiêm Tam Thánh”.
Phổ Hiền Bồ Tát có lời nguyện rằng: “Phổ hiền hành nguyện uy thần lực, phổ hiện nhất thiết như lai tiền”. Phổ Hiền Bồ Tát truyền bá Phật pháp thập phương công đức vô lượng, còn tu hành đạo hạnh vô thượng, có thể độ vô biên hữu tình, dùng trí tuệ để thỏa nguyện chúng sinh, giúp muôn dân biết đến đạo Phật.
Phổ Hiền Bồ Tát hành thiện vô số, phân thân trong tích tắc, tùy duyên giáo hóa chúng sinh. Dân gian còn gọi Ngài là Thập Đại Nguyện Vương, “Pháp Hoa kinh” ghi rằng: chỉ cần thành tâm tín phật là Phổ Hiền Bồ Tát cùng chư đại Bồ Tát sẽ cùng hiện thân bảo hộ, giúp cho thân tâm đều được an yên, xóa bỏ mọi ưu phiền, chẳng lo yêu ma quấy phá.
“Phổ Hiền diên mệnh kinh kí” nói rằng: Phổ Hiền Bồ Tát có sức mạnh vô cùng, có khả năng kéo dài tuổi thọ. Ngài là đại diện cho lễ đức và hành thiện, tượng trưng cho chân lý. Ngài dùng trí tuệ dẫn lối chúng sinh, dùng hành động để làm gương cho muôn dân, hoàn thành những ước nguyện của người cầu Phật, còn được dân chúng tôn làm “Đại hành Phổ Hiền Bồ Tát”.
Ngày Phổ Hiền Bồ Tát đản sinh: ngày 21 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Người sinh năm Ngọ có Phật độ mệnh là Đại Thế Chí Bồ Tát, ban cho người tuổi Ngọ ánh sáng trí tuệ, giúp đường đời được thuận buồm xuôi gió, sự nghiệp hanh thông. Ánh sáng vĩnh hằng Phật pháp sẽ hóa sát trừ hung, ban điều như ý cát tường, chỉ lối dẫn đường cho người tuổi Ngọ phát huy năng lực để đạt đến lý tưởng cao nhất.
Đại Thế Chí Bồ Tát là vị hành giả bên cạnh Phật A di đà, còn gọi là Đại Tinh Tiến Bồ Tát, gọi tắt là Thế Chí. Đại Thế Chí Bồ Tát cùng Phật A di đà và Quan Thế Âm Bồ Tát (Quan Âm nghìn mắt nghìn tay) hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
“Bi Hoa kinh” kể rằng trước đây có một vị chuyển luân Thánh Vương, đại thái tử là Quan Thế Âm Bồ Tát, nhị thái tử là Đại Thế Chí Bồ Tát, tam thái tử là Văn Thù Bồ Tát, tứ thái tử là Phổ Hiền Bồ Tát. Chuyển luân Thánh Vương về sau tu hành thành Phật, chính là Phật A di đà của giới Tây phương cực lạc, Quan Thế Âm Bồ Tát cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đi theo vua cha phò trợ tả hữu hai bên.
“Quan vô lượng thọ kinh” ghi rằng: Đại Thế Chí Bồ Tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp nhân gian, giúp chúng sinh thoát khỏi nạn đao binh cũng như thiên tai bão lụt, công đức vô lượng, uy thế vô biên. Đại Thế Chí Bồ Tát là ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh.
Ngày Đại Thế Chí Bồ Tát đản sinh: ngày 13 tháng 7 âm lịch.
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Người sinh năm Mùi, năm Thân có Phật độ mệnh là Đại Nhật Như Lai, Ngài là biểu tượng của ánh sáng và trí tuệ, giúp người tuổi Mùi, tuổi Thân luôn giữ được tinh thần minh mẫn, trừ yêu tránh tà, cảm nhận được tinh hoa vạn vật, hấp thu linh khí đất trời, vững vàng tiến lên phía trước, cuộc đời sáng lạn, hạnh phúc.
Đại Nhật Như Lai là tôn xưng chí cao vô thượng trong Phật giáo Mật tông, là Đức Phật cấp cao nhất trong Mật tông. Theo đó, tất cả các đức Phật và Bồ Tát đều do Đại Nhật Như Lai mà ra, Đại Nhật Như Lai đứng đầu chỉ huy tất cả, là đức Phật khởi sinh trong giới Phật giáo Mật tông.
“Đại nhật” có nghĩa là thắng cả mặt trời, Đại Nhật Như Lai có thể phá bỏ mọi tà pháp, xóa mọi trở ngại trong chốn nhân gian, công đức viên mãn, đem ánh sáng trí tuệ chiếu sáng muôn nơi, không còn đêm đen che giấu, khởi nguồn sinh sôi Phật Tâm. Ánh sáng trí tuệ của Đại Nhật Như Lai khơi gợi tâm thiện trong mỗi con người.
Tuổi Dậu: Bất Động Minh Vương
Người sinh năm Dậu có Phật độ mệnh là Bất Động Minh Vương – Bất Động Tôn Bồ Tát, tượng trưng cho lý trí, trí tuệ. Ngài sẽ thầm lặng đi theo bảo vệ, giúp cho người tuổi Dậu trên đường đời phân biệt phải trái đúng sai, nắm bắt cơ hội đến với mình, sử dụng trí tuệ để ứng phó với khó khăn, vượt qua nghịch cảnh, có được sự nghiệp thành công, gia đình hạnh phúc. Đeo tượng Phật bản mệnh Bất Động Tôn Bồ Tát có những điều cấm kị, bạn đừng bỏ qua nhé.
Bất Động Tôn Bồ Tát còn có tên tiếng Phạn là Acalanatha, nghĩa là Bất Động Tôn hay Vô Động Tôn. Giáo giới tôn ngài làm Bất Động Minh Vương, là sứ giả bất động. “Bất động” ở đây chỉ tâm từ bi bền vững không chút dao động lung lay, còn “Minh” chỉ ánh sáng trí tuệ.
Chỉ cần nhìn thấy Bất Động Tôn Bồ Tát là tự phát thiện tâm, nghe thấy tên là đoạn mọi ác tâm, nghe thấy pháp danh như được thêm trí tuệ, hiểu rõ tâm tư thì có cơ may thành Phật.
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Người sinh năm Tuất, năm Hợi có Phật độ mệnh là Phật A di đà, tượng trưng cho ánh sáng, phúc thọ, bảo hộ cho người tuổi Tuất, tuổi Hợi trí tuệ hơn người, xóa bỏ phiền não, mệt mỏi, kiên cường gây dựng cơ đồ, hưởng đời an lạc.
Phật A di đà còn có tên tiếng Phạn là Amitayusa (Vô Lượng Thọ), Amitaba (Vô Lượng Quang). Ngài còn được gọi là Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Quang, Phật Quan Tự Tại Vương, Cam Lộ Vương. Phật A di đà là giáo chủ trong giới Tây phương cực lạc, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tài hợp thành “Tây Phương Tam Thánh”.
Theo ghi chép cổ, từ thời xa xưa, Ngài vốn được giáo hóa bởi Phật Thế Tự Tại Vương, nguyện gây dựng Phật Quốc tận thiện tận mĩ (nơi cực lạc), dùng cách đi độ hóa chúng sinh, phát 48 lời thề nguyện, nhờ đó tu hành thành Phật A di đà. Những ai có cơ may gặp được Ngài thì có thể thoát khỏi mọi nỗi thống khổ trên đời.
Ngày Phật A di đà đản sinh: ngày 17 tháng 11 âm lịch. (Đây kì thực là ngày sinh của Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, tương truyền là đấng tái sinh của Phật A di đà.)
Các mẫu Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá tại cơ sở Tín Khôi:
Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết DCG20 – Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Mỗi người khi sinh ra đều được Phật đi theo phù hộ, tương ứng với từng năm sinh mà đức Phật độ mệnh cho mỗi người lại khác nhau. Vậy bạn đã biết Phật bản mệnh của từng con giáp là ai chưa?
Trong sách “Pháp uyển châu lâm” của nhà phật có viết: “Bên ngoài cõi Diêm Phù Đề, bên trong bốn biển có 12 loài thú được Bồ Tát giáo hóa. Khi cõi người mới sinh ra, Bồ Tát phân nhiệm vụ những loài thú này bảo vệ, nhận được lợi ích nên 12 con giáp cũng dựa vào đó để đặt ra…”. Mỗi con giáp sẽ thuộc quản lý và nhận được sự độ mệnh của một vị Phật khác nhau. Những vị phật này sẽ bảo hộ và mang đến may mắn, sức khỏe, thành công cho những con giáp này.
Phật độ mệnh không phân biệt giàu nghèo, giới tính. Vì thế nếu muốn cầu bình an, may mắn, thành công thì nên đeo vòng hoặc dây có hình vị phật độ mệnh cho con giáp của mình và làm việc tốt kết hợp cùng hướng tới vị phật bản mệnh để cầu phúc.
Phật bản mệnh được phân định theo tuổi (con giáp) như sau
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Tuổi Dậu: Bất Động Tôn Bồ Tát
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Tùy theo năm sinh mà ta phân định con giáp nào được Phật nào độ mệnh. Phật bản mệnh không thay đổi theo năm. Theo quan niệm dân gian, Phật bản mệnh sẽ bảo hộ cho bạn được bình an, cuộc sống thuận buồm xuôi gió.
Bạn nên biết Phật bản mệnh của mình là ai, điều đó sẽ giúp ích rất nhiều cho cuộc sống sau này của bạn. Đơn giản như khi đi chùa cầu an lễ Phật, ta biết hướng về ai kêu cầu, ước nguyện. Phật không phân sang hèn, không phân già trẻ, chỉ cần bạn thành tâm cầu khấn thì mỗi đức Phật đều có công đức vô lượng, có thể bảo hộ cho ta vượt mọi khó khăn. Bày tượng Phật bản mệnh hoặc đeo vòng có mặt hình tượng Phật bản mệnh, bạn sẽ có được bình an, may mắn và hạnh phúc như ý.
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Người sinh năm Tý có Phật độ mệnh là Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, biểu trưng cho đại từ đại bi. Ngài sẽ giúp bạn vượt qua được mọi khó khăn trong cuộc sống, có đủ ý chí và niềm tin để chiến thắng mọi bệnh tật. Khi vận may của bạn tìm đến, Ngài sẽ góp sức để vận thế của bạn thêm huy hoàng, xán lạn. Ngược lại, nếu bạn đang gặp vận rủi, Ngài sẽ giúp bạn hóa giải khó khăn, vượt qua hoạn nạn một cách để cuộc sống bình an, hạnh phúc và may mắn.
Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay là một trong tứ đại Bồ Tát. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay và Đại Thế Chí Bồ Tát là người phò trợ truyền bá Thánh pháp cho Phật A di đà. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cùng với Phật A di đà và Đại Thế Chí Bồ Tát hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
Điển tích Phật giáo có ghi chép lại, nghìn tay của Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dùng để cứu hộ chúng sinh, còn nghìn mắt để dõi khắp nhân gian. Sau thời nhà Đường ở Trung Quốc, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dần dần được rất nhiều chùa chiền thờ phụng. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thường lấy 42 cánh tay tượng trưng cho nghìn tay, trên mỗi cánh tay đều có một mắt.
Chữ “nghìn” trong Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thể hiện sự vô lượng và viên mãn, nghìn tay từ bi dang rộng cứu giúp chúng sinh, nghìn mắt trí tuệ soi thấu khắp cõi trần gian. Theo “Kinh Đà la ni”: Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay phổ độ chúng sinh, thỏa mãn mọi ước nguyện, giúp dân chúng sống đời an lạc.
Ngày Quan Âm nghìn mắt nghìn tay đản sinh: ngày 19 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Người sinh năm Sửu, năm Dần có Phật độ mệnh là Hư Không Tạng Bồ Tát, đại diện cho sự thành thực và sung túc. Bất hư bất không là Thần Tài của Phật giới, khi bạn mang theo mình mặt ngọc Hư Không Tạng Bồ Tát, ngài sẽ giúp bạn mở lối thoát nguy nan, tránh hao tài phá của, vận thế tài lộc tăng tiến không ngừng, lại càng thêm sinh tài tụ lộc, được Bát Phương quý nhân tương trợ, đánh đuổi tiểu nhân, tiền tài vượng phát.
Tên phiên âm theo tiếng Phạn của Hư Không Tạng Bồ Tát là Akasagarbha, mật danh là Khố Tạng Kim Cương. Hư Không Tạng Bồ Tát là Đệ nhất phù thần của Tam Thế Chư Phật, công đức khắp hư không, thông tuệ mọi điều trên thế gian này, có tâm nhẫn nhịn tựa kim cương, ý chí kiên cường như gió lớn, đẩy lùi mọi cám dỗ trên đời. Đọc thông “Hư Không Tạng chú” có thể giữ tâm kiên định, tăng cường trí nhớ, thúc đẩy chí tiến thủ.
Hư Không Tạng Bồ Tát có sức mạnh ban tạng niềm vui và tài lộc. “Tạng” thể hiện phúc đức trí tuệ vô biên, “Hư Không” thể hiện sự rộng lớn khôn cùng, “Đại phương đẳng đại tập kinh” có chỉ rõ: Hư Không Tạng tựa như phú ông, chúng sinh đói khổ chỉ cần đến trước mặt Bồ Tát kêu cầu là được cứu tế. Vì thế mà Hư Không Tạng Bồ Tát còn được biết đến là vị Bồ Tát coi cứu độ chúng sinh là niềm vui.
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Người sinh năm Mão có Phật độ mệnh là Văn Thù Bồ Tát, biểu trưng của đại trí tuệ, có thể thắp lên ánh sáng tinh thần, khai sáng tư duy, tăng cao ngộ tính. Ngài giúp cho đường học hành thuận lợi, hoạn lộ thênh thang, phúc lộc đầy nhà. Người tuổi Mão sẽ càng thêm sáng tạo, ý chí kiên cường, đủ sức cạnh tranh và chiến thắng đối phương, sự nghiệp thăng tiến không ngừng.
Danh xưng theo âm tiếng Phạn của Văn Thù Bồ Tát là Manjusri, hay còn gọi là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. “Đại Nhật kinh” ghi rằng: Diệu Cát Tường, Văn Thù hay Mạn Thù đều mang nghĩa chỉ điều kì diệu, còn Sư Lợi hay Thất Lợi có nghĩa là phúc đức hay cát tường, gọi đơn giản là Văn Thù.
Văn Thù Bồ Tát là thị giả theo hầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đại đệ tử của Đức Phật. Văn Thù Bồ Tát, Phật Thích Ca Mâu Ni và Phổ Hiền Bồ Tát được dân gian tôn là “Hoa Nghiêm Tam Thánh”. Văn Thù Bồ Tát là bậc đại trí dùng trí tuệ dẫn đường chúng sinh, tài năng đức độ đứng đầu trong các vị Bồ Tát, là biểu trưng cho trí tuệ.
Văn Thù Bồ Tát còn được gọi là Pháp Vương Tử, đại diện cho trí tuệ, mặc đồ màu tím vàng như Đồng tử, đỉnh đầu có 5 xoáy, tóc búi cao. Tay phải cầm Kim cương bảo kiếm (tượng trưng cho sự sắc bén của trí tuệ), có thể chém ma trừ tà, chặt đứt mọi nỗi muộn phiền. Tay phải cầm búp sen xanh, trong búp hoa có cuốn kinh Kim cương, tượng trưng cho trí tuệ vô thượng, cưỡi trên lưng sư tử (biểu trưng cho sức mạnh của trí tuệ).
Ngày Văn Thù Bồ Tát đản sinh: ngày 4 tháng 4 âm lịch.
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Người sinh năm Thìn, năm Tị có Phật độ mệnh là Phổ Hiền Bồ Tát, đại diện cho lý trí, đức độ và đại hành nguyện. Ngài sẽ đi theo phù hộ cho người tuổi Thìn, tuổi Tị hoàn thành ước nguyện, trừ bỏ tiểu nhân, tăng thêm khí thế, quyền uy của người lãnh đạo, giúp bạn cầu được ước thấy, hạnh phúc mỹ mãn.
Tên tiếng Phạn của Phổ Hiền Bồ Tát là Samantabhadra. Phổ Hiền Bồ Tát đi theo phù trợ, truyền bá Phật giáo cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng với Văn Thù Bồ Tát hợp thành “Hoa Nghiêm Tam Thánh”.
Phổ Hiền Bồ Tát có lời nguyện rằng: “Phổ hiền hành nguyện uy thần lực, phổ hiện nhất thiết như lai tiền”. Phổ Hiền Bồ Tát truyền bá Phật pháp thập phương công đức vô lượng, còn tu hành đạo hạnh vô thượng, có thể độ vô biên hữu tình, dùng trí tuệ để thỏa nguyện chúng sinh, giúp muôn dân biết đến đạo Phật.
Phổ Hiền Bồ Tát hành thiện vô số, phân thân trong tích tắc, tùy duyên giáo hóa chúng sinh. Dân gian còn gọi Ngài là Thập Đại Nguyện Vương, “Pháp Hoa kinh” ghi rằng: chỉ cần thành tâm tín phật là Phổ Hiền Bồ Tát cùng chư đại Bồ Tát sẽ cùng hiện thân bảo hộ, giúp cho thân tâm đều được an yên, xóa bỏ mọi ưu phiền, chẳng lo yêu ma quấy phá.
“Phổ Hiền diên mệnh kinh kí” nói rằng: Phổ Hiền Bồ Tát có sức mạnh vô cùng, có khả năng kéo dài tuổi thọ. Ngài là đại diện cho lễ đức và hành thiện, tượng trưng cho chân lý. Ngài dùng trí tuệ dẫn lối chúng sinh, dùng hành động để làm gương cho muôn dân, hoàn thành những ước nguyện của người cầu Phật, còn được dân chúng tôn làm “Đại hành Phổ Hiền Bồ Tát”.
Ngày Phổ Hiền Bồ Tát đản sinh: ngày 21 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Người sinh năm Ngọ có Phật độ mệnh là Đại Thế Chí Bồ Tát, ban cho người tuổi Ngọ ánh sáng trí tuệ, giúp đường đời được thuận buồm xuôi gió, sự nghiệp hanh thông. Ánh sáng vĩnh hằng Phật pháp sẽ hóa sát trừ hung, ban điều như ý cát tường, chỉ lối dẫn đường cho người tuổi Ngọ phát huy năng lực để đạt đến lý tưởng cao nhất.
Đại Thế Chí Bồ Tát là vị hành giả bên cạnh Phật A di đà, còn gọi là Đại Tinh Tiến Bồ Tát, gọi tắt là Thế Chí. Đại Thế Chí Bồ Tát cùng Phật A di đà và Quan Thế Âm Bồ Tát (Quan Âm nghìn mắt nghìn tay) hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
“Bi Hoa kinh” kể rằng trước đây có một vị chuyển luân Thánh Vương, đại thái tử là Quan Thế Âm Bồ Tát, nhị thái tử là Đại Thế Chí Bồ Tát, tam thái tử là Văn Thù Bồ Tát, tứ thái tử là Phổ Hiền Bồ Tát. Chuyển luân Thánh Vương về sau tu hành thành Phật, chính là Phật A di đà của giới Tây phương cực lạc, Quan Thế Âm Bồ Tát cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đi theo vua cha phò trợ tả hữu hai bên.
“Quan vô lượng thọ kinh” ghi rằng: Đại Thế Chí Bồ Tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp nhân gian, giúp chúng sinh thoát khỏi nạn đao binh cũng như thiên tai bão lụt, công đức vô lượng, uy thế vô biên. Đại Thế Chí Bồ Tát là ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh.
Ngày Đại Thế Chí Bồ Tát đản sinh: ngày 13 tháng 7 âm lịch.
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Người sinh năm Mùi, năm Thân có Phật độ mệnh là Đại Nhật Như Lai, Ngài là biểu tượng của ánh sáng và trí tuệ, giúp người tuổi Mùi, tuổi Thân luôn giữ được tinh thần minh mẫn, trừ yêu tránh tà, cảm nhận được tinh hoa vạn vật, hấp thu linh khí đất trời, vững vàng tiến lên phía trước, cuộc đời sáng lạn, hạnh phúc.
Đại Nhật Như Lai là tôn xưng chí cao vô thượng trong Phật giáo Mật tông, là Đức Phật cấp cao nhất trong Mật tông. Theo đó, tất cả các đức Phật và Bồ Tát đều do Đại Nhật Như Lai mà ra, Đại Nhật Như Lai đứng đầu chỉ huy tất cả, là đức Phật khởi sinh trong giới Phật giáo Mật tông.
“Đại nhật” có nghĩa là thắng cả mặt trời, Đại Nhật Như Lai có thể phá bỏ mọi tà pháp, xóa mọi trở ngại trong chốn nhân gian, công đức viên mãn, đem ánh sáng trí tuệ chiếu sáng muôn nơi, không còn đêm đen che giấu, khởi nguồn sinh sôi Phật Tâm. Ánh sáng trí tuệ của Đại Nhật Như Lai khơi gợi tâm thiện trong mỗi con người.
Tuổi Dậu: Bất Động Minh Vương
Người sinh năm Dậu có Phật độ mệnh là Bất Động Minh Vương – Bất Động Tôn Bồ Tát, tượng trưng cho lý trí, trí tuệ. Ngài sẽ thầm lặng đi theo bảo vệ, giúp cho người tuổi Dậu trên đường đời phân biệt phải trái đúng sai, nắm bắt cơ hội đến với mình, sử dụng trí tuệ để ứng phó với khó khăn, vượt qua nghịch cảnh, có được sự nghiệp thành công, gia đình hạnh phúc. Đeo tượng Phật bản mệnh Bất Động Tôn Bồ Tát có những điều cấm kị, bạn đừng bỏ qua nhé.
Bất Động Tôn Bồ Tát còn có tên tiếng Phạn là Acalanatha, nghĩa là Bất Động Tôn hay Vô Động Tôn. Giáo giới tôn ngài làm Bất Động Minh Vương, là sứ giả bất động. “Bất động” ở đây chỉ tâm từ bi bền vững không chút dao động lung lay, còn “Minh” chỉ ánh sáng trí tuệ.
Chỉ cần nhìn thấy Bất Động Tôn Bồ Tát là tự phát thiện tâm, nghe thấy tên là đoạn mọi ác tâm, nghe thấy pháp danh như được thêm trí tuệ, hiểu rõ tâm tư thì có cơ may thành Phật.
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Người sinh năm Tuất, năm Hợi có Phật độ mệnh là Phật A di đà, tượng trưng cho ánh sáng, phúc thọ, bảo hộ cho người tuổi Tuất, tuổi Hợi trí tuệ hơn người, xóa bỏ phiền não, mệt mỏi, kiên cường gây dựng cơ đồ, hưởng đời an lạc.
Phật A di đà còn có tên tiếng Phạn là Amitayusa (Vô Lượng Thọ), Amitaba (Vô Lượng Quang). Ngài còn được gọi là Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Quang, Phật Quan Tự Tại Vương, Cam Lộ Vương. Phật A di đà là giáo chủ trong giới Tây phương cực lạc, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tài hợp thành “Tây Phương Tam Thánh”.
Theo ghi chép cổ, từ thời xa xưa, Ngài vốn được giáo hóa bởi Phật Thế Tự Tại Vương, nguyện gây dựng Phật Quốc tận thiện tận mĩ (nơi cực lạc), dùng cách đi độ hóa chúng sinh, phát 48 lời thề nguyện, nhờ đó tu hành thành Phật A di đà. Những ai có cơ may gặp được Ngài thì có thể thoát khỏi mọi nỗi thống khổ trên đời.
Ngày Phật A di đà đản sinh: ngày 17 tháng 11 âm lịch. (Đây kì thực là ngày sinh của Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, tương truyền là đấng tái sinh của Phật A di đà.)
Các mẫu Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá tại cơ sở Tín Khôi:
Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết DCG23 – Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Mỗi người khi sinh ra đều được Phật đi theo phù hộ, tương ứng với từng năm sinh mà đức Phật độ mệnh cho mỗi người lại khác nhau. Vậy bạn đã biết Phật bản mệnh của từng con giáp là ai chưa?
Trong sách “Pháp uyển châu lâm” của nhà phật có viết: “Bên ngoài cõi Diêm Phù Đề, bên trong bốn biển có 12 loài thú được Bồ Tát giáo hóa. Khi cõi người mới sinh ra, Bồ Tát phân nhiệm vụ những loài thú này bảo vệ, nhận được lợi ích nên 12 con giáp cũng dựa vào đó để đặt ra…”. Mỗi con giáp sẽ thuộc quản lý và nhận được sự độ mệnh của một vị Phật khác nhau. Những vị phật này sẽ bảo hộ và mang đến may mắn, sức khỏe, thành công cho những con giáp này.
Phật độ mệnh không phân biệt giàu nghèo, giới tính. Vì thế nếu muốn cầu bình an, may mắn, thành công thì nên đeo vòng hoặc dây có hình vị phật độ mệnh cho con giáp của mình và làm việc tốt kết hợp cùng hướng tới vị phật bản mệnh để cầu phúc.
Phật bản mệnh được phân định theo tuổi (con giáp) như sau
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Tuổi Dậu: Bất Động Tôn Bồ Tát
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Tùy theo năm sinh mà ta phân định con giáp nào được Phật nào độ mệnh. Phật bản mệnh không thay đổi theo năm. Theo quan niệm dân gian, Phật bản mệnh sẽ bảo hộ cho bạn được bình an, cuộc sống thuận buồm xuôi gió.
Bạn nên biết Phật bản mệnh của mình là ai, điều đó sẽ giúp ích rất nhiều cho cuộc sống sau này của bạn. Đơn giản như khi đi chùa cầu an lễ Phật, ta biết hướng về ai kêu cầu, ước nguyện. Phật không phân sang hèn, không phân già trẻ, chỉ cần bạn thành tâm cầu khấn thì mỗi đức Phật đều có công đức vô lượng, có thể bảo hộ cho ta vượt mọi khó khăn. Bày tượng Phật bản mệnh hoặc đeo vòng có mặt hình tượng Phật bản mệnh, bạn sẽ có được bình an, may mắn và hạnh phúc như ý.
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Người sinh năm Tý có Phật độ mệnh là Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, biểu trưng cho đại từ đại bi. Ngài sẽ giúp bạn vượt qua được mọi khó khăn trong cuộc sống, có đủ ý chí và niềm tin để chiến thắng mọi bệnh tật. Khi vận may của bạn tìm đến, Ngài sẽ góp sức để vận thế của bạn thêm huy hoàng, xán lạn. Ngược lại, nếu bạn đang gặp vận rủi, Ngài sẽ giúp bạn hóa giải khó khăn, vượt qua hoạn nạn một cách để cuộc sống bình an, hạnh phúc và may mắn.
Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay là một trong tứ đại Bồ Tát. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay và Đại Thế Chí Bồ Tát là người phò trợ truyền bá Thánh pháp cho Phật A di đà. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cùng với Phật A di đà và Đại Thế Chí Bồ Tát hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
Điển tích Phật giáo có ghi chép lại, nghìn tay của Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dùng để cứu hộ chúng sinh, còn nghìn mắt để dõi khắp nhân gian. Sau thời nhà Đường ở Trung Quốc, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dần dần được rất nhiều chùa chiền thờ phụng. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thường lấy 42 cánh tay tượng trưng cho nghìn tay, trên mỗi cánh tay đều có một mắt.
Chữ “nghìn” trong Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thể hiện sự vô lượng và viên mãn, nghìn tay từ bi dang rộng cứu giúp chúng sinh, nghìn mắt trí tuệ soi thấu khắp cõi trần gian. Theo “Kinh Đà la ni”: Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay phổ độ chúng sinh, thỏa mãn mọi ước nguyện, giúp dân chúng sống đời an lạc.
Ngày Quan Âm nghìn mắt nghìn tay đản sinh: ngày 19 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Người sinh năm Sửu, năm Dần có Phật độ mệnh là Hư Không Tạng Bồ Tát, đại diện cho sự thành thực và sung túc. Bất hư bất không là Thần Tài của Phật giới, khi bạn mang theo mình mặt ngọc Hư Không Tạng Bồ Tát, ngài sẽ giúp bạn mở lối thoát nguy nan, tránh hao tài phá của, vận thế tài lộc tăng tiến không ngừng, lại càng thêm sinh tài tụ lộc, được Bát Phương quý nhân tương trợ, đánh đuổi tiểu nhân, tiền tài vượng phát.
Tên phiên âm theo tiếng Phạn của Hư Không Tạng Bồ Tát là Akasagarbha, mật danh là Khố Tạng Kim Cương. Hư Không Tạng Bồ Tát là Đệ nhất phù thần của Tam Thế Chư Phật, công đức khắp hư không, thông tuệ mọi điều trên thế gian này, có tâm nhẫn nhịn tựa kim cương, ý chí kiên cường như gió lớn, đẩy lùi mọi cám dỗ trên đời. Đọc thông “Hư Không Tạng chú” có thể giữ tâm kiên định, tăng cường trí nhớ, thúc đẩy chí tiến thủ.
Hư Không Tạng Bồ Tát có sức mạnh ban tạng niềm vui và tài lộc. “Tạng” thể hiện phúc đức trí tuệ vô biên, “Hư Không” thể hiện sự rộng lớn khôn cùng, “Đại phương đẳng đại tập kinh” có chỉ rõ: Hư Không Tạng tựa như phú ông, chúng sinh đói khổ chỉ cần đến trước mặt Bồ Tát kêu cầu là được cứu tế. Vì thế mà Hư Không Tạng Bồ Tát còn được biết đến là vị Bồ Tát coi cứu độ chúng sinh là niềm vui.
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Người sinh năm Mão có Phật độ mệnh là Văn Thù Bồ Tát, biểu trưng của đại trí tuệ, có thể thắp lên ánh sáng tinh thần, khai sáng tư duy, tăng cao ngộ tính. Ngài giúp cho đường học hành thuận lợi, hoạn lộ thênh thang, phúc lộc đầy nhà. Người tuổi Mão sẽ càng thêm sáng tạo, ý chí kiên cường, đủ sức cạnh tranh và chiến thắng đối phương, sự nghiệp thăng tiến không ngừng.
Danh xưng theo âm tiếng Phạn của Văn Thù Bồ Tát là Manjusri, hay còn gọi là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. “Đại Nhật kinh” ghi rằng: Diệu Cát Tường, Văn Thù hay Mạn Thù đều mang nghĩa chỉ điều kì diệu, còn Sư Lợi hay Thất Lợi có nghĩa là phúc đức hay cát tường, gọi đơn giản là Văn Thù.
Văn Thù Bồ Tát là thị giả theo hầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đại đệ tử của Đức Phật. Văn Thù Bồ Tát, Phật Thích Ca Mâu Ni và Phổ Hiền Bồ Tát được dân gian tôn là “Hoa Nghiêm Tam Thánh”. Văn Thù Bồ Tát là bậc đại trí dùng trí tuệ dẫn đường chúng sinh, tài năng đức độ đứng đầu trong các vị Bồ Tát, là biểu trưng cho trí tuệ.
Văn Thù Bồ Tát còn được gọi là Pháp Vương Tử, đại diện cho trí tuệ, mặc đồ màu tím vàng như Đồng tử, đỉnh đầu có 5 xoáy, tóc búi cao. Tay phải cầm Kim cương bảo kiếm (tượng trưng cho sự sắc bén của trí tuệ), có thể chém ma trừ tà, chặt đứt mọi nỗi muộn phiền. Tay phải cầm búp sen xanh, trong búp hoa có cuốn kinh Kim cương, tượng trưng cho trí tuệ vô thượng, cưỡi trên lưng sư tử (biểu trưng cho sức mạnh của trí tuệ).
Ngày Văn Thù Bồ Tát đản sinh: ngày 4 tháng 4 âm lịch.
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Người sinh năm Thìn, năm Tị có Phật độ mệnh là Phổ Hiền Bồ Tát, đại diện cho lý trí, đức độ và đại hành nguyện. Ngài sẽ đi theo phù hộ cho người tuổi Thìn, tuổi Tị hoàn thành ước nguyện, trừ bỏ tiểu nhân, tăng thêm khí thế, quyền uy của người lãnh đạo, giúp bạn cầu được ước thấy, hạnh phúc mỹ mãn.
Tên tiếng Phạn của Phổ Hiền Bồ Tát là Samantabhadra. Phổ Hiền Bồ Tát đi theo phù trợ, truyền bá Phật giáo cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng với Văn Thù Bồ Tát hợp thành “Hoa Nghiêm Tam Thánh”.
Phổ Hiền Bồ Tát có lời nguyện rằng: “Phổ hiền hành nguyện uy thần lực, phổ hiện nhất thiết như lai tiền”. Phổ Hiền Bồ Tát truyền bá Phật pháp thập phương công đức vô lượng, còn tu hành đạo hạnh vô thượng, có thể độ vô biên hữu tình, dùng trí tuệ để thỏa nguyện chúng sinh, giúp muôn dân biết đến đạo Phật.
Phổ Hiền Bồ Tát hành thiện vô số, phân thân trong tích tắc, tùy duyên giáo hóa chúng sinh. Dân gian còn gọi Ngài là Thập Đại Nguyện Vương, “Pháp Hoa kinh” ghi rằng: chỉ cần thành tâm tín phật là Phổ Hiền Bồ Tát cùng chư đại Bồ Tát sẽ cùng hiện thân bảo hộ, giúp cho thân tâm đều được an yên, xóa bỏ mọi ưu phiền, chẳng lo yêu ma quấy phá.
“Phổ Hiền diên mệnh kinh kí” nói rằng: Phổ Hiền Bồ Tát có sức mạnh vô cùng, có khả năng kéo dài tuổi thọ. Ngài là đại diện cho lễ đức và hành thiện, tượng trưng cho chân lý. Ngài dùng trí tuệ dẫn lối chúng sinh, dùng hành động để làm gương cho muôn dân, hoàn thành những ước nguyện của người cầu Phật, còn được dân chúng tôn làm “Đại hành Phổ Hiền Bồ Tát”.
Ngày Phổ Hiền Bồ Tát đản sinh: ngày 21 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Người sinh năm Ngọ có Phật độ mệnh là Đại Thế Chí Bồ Tát, ban cho người tuổi Ngọ ánh sáng trí tuệ, giúp đường đời được thuận buồm xuôi gió, sự nghiệp hanh thông. Ánh sáng vĩnh hằng Phật pháp sẽ hóa sát trừ hung, ban điều như ý cát tường, chỉ lối dẫn đường cho người tuổi Ngọ phát huy năng lực để đạt đến lý tưởng cao nhất.
Đại Thế Chí Bồ Tát là vị hành giả bên cạnh Phật A di đà, còn gọi là Đại Tinh Tiến Bồ Tát, gọi tắt là Thế Chí. Đại Thế Chí Bồ Tát cùng Phật A di đà và Quan Thế Âm Bồ Tát (Quan Âm nghìn mắt nghìn tay) hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
“Bi Hoa kinh” kể rằng trước đây có một vị chuyển luân Thánh Vương, đại thái tử là Quan Thế Âm Bồ Tát, nhị thái tử là Đại Thế Chí Bồ Tát, tam thái tử là Văn Thù Bồ Tát, tứ thái tử là Phổ Hiền Bồ Tát. Chuyển luân Thánh Vương về sau tu hành thành Phật, chính là Phật A di đà của giới Tây phương cực lạc, Quan Thế Âm Bồ Tát cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đi theo vua cha phò trợ tả hữu hai bên.
“Quan vô lượng thọ kinh” ghi rằng: Đại Thế Chí Bồ Tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp nhân gian, giúp chúng sinh thoát khỏi nạn đao binh cũng như thiên tai bão lụt, công đức vô lượng, uy thế vô biên. Đại Thế Chí Bồ Tát là ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh.
Ngày Đại Thế Chí Bồ Tát đản sinh: ngày 13 tháng 7 âm lịch.
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Người sinh năm Mùi, năm Thân có Phật độ mệnh là Đại Nhật Như Lai, Ngài là biểu tượng của ánh sáng và trí tuệ, giúp người tuổi Mùi, tuổi Thân luôn giữ được tinh thần minh mẫn, trừ yêu tránh tà, cảm nhận được tinh hoa vạn vật, hấp thu linh khí đất trời, vững vàng tiến lên phía trước, cuộc đời sáng lạn, hạnh phúc.
Đại Nhật Như Lai là tôn xưng chí cao vô thượng trong Phật giáo Mật tông, là Đức Phật cấp cao nhất trong Mật tông. Theo đó, tất cả các đức Phật và Bồ Tát đều do Đại Nhật Như Lai mà ra, Đại Nhật Như Lai đứng đầu chỉ huy tất cả, là đức Phật khởi sinh trong giới Phật giáo Mật tông.
“Đại nhật” có nghĩa là thắng cả mặt trời, Đại Nhật Như Lai có thể phá bỏ mọi tà pháp, xóa mọi trở ngại trong chốn nhân gian, công đức viên mãn, đem ánh sáng trí tuệ chiếu sáng muôn nơi, không còn đêm đen che giấu, khởi nguồn sinh sôi Phật Tâm. Ánh sáng trí tuệ của Đại Nhật Như Lai khơi gợi tâm thiện trong mỗi con người.
Tuổi Dậu: Bất Động Minh Vương
Người sinh năm Dậu có Phật độ mệnh là Bất Động Minh Vương – Bất Động Tôn Bồ Tát, tượng trưng cho lý trí, trí tuệ. Ngài sẽ thầm lặng đi theo bảo vệ, giúp cho người tuổi Dậu trên đường đời phân biệt phải trái đúng sai, nắm bắt cơ hội đến với mình, sử dụng trí tuệ để ứng phó với khó khăn, vượt qua nghịch cảnh, có được sự nghiệp thành công, gia đình hạnh phúc. Đeo tượng Phật bản mệnh Bất Động Tôn Bồ Tát có những điều cấm kị, bạn đừng bỏ qua nhé.
Bất Động Tôn Bồ Tát còn có tên tiếng Phạn là Acalanatha, nghĩa là Bất Động Tôn hay Vô Động Tôn. Giáo giới tôn ngài làm Bất Động Minh Vương, là sứ giả bất động. “Bất động” ở đây chỉ tâm từ bi bền vững không chút dao động lung lay, còn “Minh” chỉ ánh sáng trí tuệ.
Chỉ cần nhìn thấy Bất Động Tôn Bồ Tát là tự phát thiện tâm, nghe thấy tên là đoạn mọi ác tâm, nghe thấy pháp danh như được thêm trí tuệ, hiểu rõ tâm tư thì có cơ may thành Phật.
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Người sinh năm Tuất, năm Hợi có Phật độ mệnh là Phật A di đà, tượng trưng cho ánh sáng, phúc thọ, bảo hộ cho người tuổi Tuất, tuổi Hợi trí tuệ hơn người, xóa bỏ phiền não, mệt mỏi, kiên cường gây dựng cơ đồ, hưởng đời an lạc.
Phật A di đà còn có tên tiếng Phạn là Amitayusa (Vô Lượng Thọ), Amitaba (Vô Lượng Quang). Ngài còn được gọi là Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Quang, Phật Quan Tự Tại Vương, Cam Lộ Vương. Phật A di đà là giáo chủ trong giới Tây phương cực lạc, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tài hợp thành “Tây Phương Tam Thánh”.
Theo ghi chép cổ, từ thời xa xưa, Ngài vốn được giáo hóa bởi Phật Thế Tự Tại Vương, nguyện gây dựng Phật Quốc tận thiện tận mĩ (nơi cực lạc), dùng cách đi độ hóa chúng sinh, phát 48 lời thề nguyện, nhờ đó tu hành thành Phật A di đà. Những ai có cơ may gặp được Ngài thì có thể thoát khỏi mọi nỗi thống khổ trên đời.
Ngày Phật A di đà đản sinh: ngày 17 tháng 11 âm lịch. (Đây kì thực là ngày sinh của Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, tương truyền là đấng tái sinh của Phật A di đà.)
Các mẫu Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá tại cơ sở Tín Khôi:
Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết DCG17 – Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Mỗi người khi sinh ra đều được Phật đi theo phù hộ, tương ứng với từng năm sinh mà đức Phật độ mệnh cho mỗi người lại khác nhau. Vậy bạn đã biết Phật bản mệnh của từng con giáp là ai chưa?
Trong sách “Pháp uyển châu lâm” của nhà phật có viết: “Bên ngoài cõi Diêm Phù Đề, bên trong bốn biển có 12 loài thú được Bồ Tát giáo hóa. Khi cõi người mới sinh ra, Bồ Tát phân nhiệm vụ những loài thú này bảo vệ, nhận được lợi ích nên 12 con giáp cũng dựa vào đó để đặt ra…”. Mỗi con giáp sẽ thuộc quản lý và nhận được sự độ mệnh của một vị Phật khác nhau. Những vị phật này sẽ bảo hộ và mang đến may mắn, sức khỏe, thành công cho những con giáp này.
Phật độ mệnh không phân biệt giàu nghèo, giới tính. Vì thế nếu muốn cầu bình an, may mắn, thành công thì nên đeo vòng hoặc dây có hình vị phật độ mệnh cho con giáp của mình và làm việc tốt kết hợp cùng hướng tới vị phật bản mệnh để cầu phúc.
Phật bản mệnh được phân định theo tuổi (con giáp) như sau
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Tuổi Dậu: Bất Động Tôn Bồ Tát
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Tùy theo năm sinh mà ta phân định con giáp nào được Phật nào độ mệnh. Phật bản mệnh không thay đổi theo năm. Theo quan niệm dân gian, Phật bản mệnh sẽ bảo hộ cho bạn được bình an, cuộc sống thuận buồm xuôi gió.
Bạn nên biết Phật bản mệnh của mình là ai, điều đó sẽ giúp ích rất nhiều cho cuộc sống sau này của bạn. Đơn giản như khi đi chùa cầu an lễ Phật, ta biết hướng về ai kêu cầu, ước nguyện. Phật không phân sang hèn, không phân già trẻ, chỉ cần bạn thành tâm cầu khấn thì mỗi đức Phật đều có công đức vô lượng, có thể bảo hộ cho ta vượt mọi khó khăn. Bày tượng Phật bản mệnh hoặc đeo vòng có mặt hình tượng Phật bản mệnh, bạn sẽ có được bình an, may mắn và hạnh phúc như ý.
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Người sinh năm Tý có Phật độ mệnh là Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, biểu trưng cho đại từ đại bi. Ngài sẽ giúp bạn vượt qua được mọi khó khăn trong cuộc sống, có đủ ý chí và niềm tin để chiến thắng mọi bệnh tật. Khi vận may của bạn tìm đến, Ngài sẽ góp sức để vận thế của bạn thêm huy hoàng, xán lạn. Ngược lại, nếu bạn đang gặp vận rủi, Ngài sẽ giúp bạn hóa giải khó khăn, vượt qua hoạn nạn một cách để cuộc sống bình an, hạnh phúc và may mắn.
Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay là một trong tứ đại Bồ Tát. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay và Đại Thế Chí Bồ Tát là người phò trợ truyền bá Thánh pháp cho Phật A di đà. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cùng với Phật A di đà và Đại Thế Chí Bồ Tát hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
Điển tích Phật giáo có ghi chép lại, nghìn tay của Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dùng để cứu hộ chúng sinh, còn nghìn mắt để dõi khắp nhân gian. Sau thời nhà Đường ở Trung Quốc, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dần dần được rất nhiều chùa chiền thờ phụng. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thường lấy 42 cánh tay tượng trưng cho nghìn tay, trên mỗi cánh tay đều có một mắt.
Chữ “nghìn” trong Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thể hiện sự vô lượng và viên mãn, nghìn tay từ bi dang rộng cứu giúp chúng sinh, nghìn mắt trí tuệ soi thấu khắp cõi trần gian. Theo “Kinh Đà la ni”: Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay phổ độ chúng sinh, thỏa mãn mọi ước nguyện, giúp dân chúng sống đời an lạc.
Ngày Quan Âm nghìn mắt nghìn tay đản sinh: ngày 19 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Người sinh năm Sửu, năm Dần có Phật độ mệnh là Hư Không Tạng Bồ Tát, đại diện cho sự thành thực và sung túc. Bất hư bất không là Thần Tài của Phật giới, khi bạn mang theo mình mặt ngọc Hư Không Tạng Bồ Tát, ngài sẽ giúp bạn mở lối thoát nguy nan, tránh hao tài phá của, vận thế tài lộc tăng tiến không ngừng, lại càng thêm sinh tài tụ lộc, được Bát Phương quý nhân tương trợ, đánh đuổi tiểu nhân, tiền tài vượng phát.
Tên phiên âm theo tiếng Phạn của Hư Không Tạng Bồ Tát là Akasagarbha, mật danh là Khố Tạng Kim Cương. Hư Không Tạng Bồ Tát là Đệ nhất phù thần của Tam Thế Chư Phật, công đức khắp hư không, thông tuệ mọi điều trên thế gian này, có tâm nhẫn nhịn tựa kim cương, ý chí kiên cường như gió lớn, đẩy lùi mọi cám dỗ trên đời. Đọc thông “Hư Không Tạng chú” có thể giữ tâm kiên định, tăng cường trí nhớ, thúc đẩy chí tiến thủ.
Hư Không Tạng Bồ Tát có sức mạnh ban tạng niềm vui và tài lộc. “Tạng” thể hiện phúc đức trí tuệ vô biên, “Hư Không” thể hiện sự rộng lớn khôn cùng, “Đại phương đẳng đại tập kinh” có chỉ rõ: Hư Không Tạng tựa như phú ông, chúng sinh đói khổ chỉ cần đến trước mặt Bồ Tát kêu cầu là được cứu tế. Vì thế mà Hư Không Tạng Bồ Tát còn được biết đến là vị Bồ Tát coi cứu độ chúng sinh là niềm vui.
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Người sinh năm Mão có Phật độ mệnh là Văn Thù Bồ Tát, biểu trưng của đại trí tuệ, có thể thắp lên ánh sáng tinh thần, khai sáng tư duy, tăng cao ngộ tính. Ngài giúp cho đường học hành thuận lợi, hoạn lộ thênh thang, phúc lộc đầy nhà. Người tuổi Mão sẽ càng thêm sáng tạo, ý chí kiên cường, đủ sức cạnh tranh và chiến thắng đối phương, sự nghiệp thăng tiến không ngừng.
Danh xưng theo âm tiếng Phạn của Văn Thù Bồ Tát là Manjusri, hay còn gọi là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. “Đại Nhật kinh” ghi rằng: Diệu Cát Tường, Văn Thù hay Mạn Thù đều mang nghĩa chỉ điều kì diệu, còn Sư Lợi hay Thất Lợi có nghĩa là phúc đức hay cát tường, gọi đơn giản là Văn Thù.
Văn Thù Bồ Tát là thị giả theo hầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đại đệ tử của Đức Phật. Văn Thù Bồ Tát, Phật Thích Ca Mâu Ni và Phổ Hiền Bồ Tát được dân gian tôn là “Hoa Nghiêm Tam Thánh”. Văn Thù Bồ Tát là bậc đại trí dùng trí tuệ dẫn đường chúng sinh, tài năng đức độ đứng đầu trong các vị Bồ Tát, là biểu trưng cho trí tuệ.
Văn Thù Bồ Tát còn được gọi là Pháp Vương Tử, đại diện cho trí tuệ, mặc đồ màu tím vàng như Đồng tử, đỉnh đầu có 5 xoáy, tóc búi cao. Tay phải cầm Kim cương bảo kiếm (tượng trưng cho sự sắc bén của trí tuệ), có thể chém ma trừ tà, chặt đứt mọi nỗi muộn phiền. Tay phải cầm búp sen xanh, trong búp hoa có cuốn kinh Kim cương, tượng trưng cho trí tuệ vô thượng, cưỡi trên lưng sư tử (biểu trưng cho sức mạnh của trí tuệ).
Ngày Văn Thù Bồ Tát đản sinh: ngày 4 tháng 4 âm lịch.
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Người sinh năm Thìn, năm Tị có Phật độ mệnh là Phổ Hiền Bồ Tát, đại diện cho lý trí, đức độ và đại hành nguyện. Ngài sẽ đi theo phù hộ cho người tuổi Thìn, tuổi Tị hoàn thành ước nguyện, trừ bỏ tiểu nhân, tăng thêm khí thế, quyền uy của người lãnh đạo, giúp bạn cầu được ước thấy, hạnh phúc mỹ mãn.
Tên tiếng Phạn của Phổ Hiền Bồ Tát là Samantabhadra. Phổ Hiền Bồ Tát đi theo phù trợ, truyền bá Phật giáo cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng với Văn Thù Bồ Tát hợp thành “Hoa Nghiêm Tam Thánh”.
Phổ Hiền Bồ Tát có lời nguyện rằng: “Phổ hiền hành nguyện uy thần lực, phổ hiện nhất thiết như lai tiền”. Phổ Hiền Bồ Tát truyền bá Phật pháp thập phương công đức vô lượng, còn tu hành đạo hạnh vô thượng, có thể độ vô biên hữu tình, dùng trí tuệ để thỏa nguyện chúng sinh, giúp muôn dân biết đến đạo Phật.
Phổ Hiền Bồ Tát hành thiện vô số, phân thân trong tích tắc, tùy duyên giáo hóa chúng sinh. Dân gian còn gọi Ngài là Thập Đại Nguyện Vương, “Pháp Hoa kinh” ghi rằng: chỉ cần thành tâm tín phật là Phổ Hiền Bồ Tát cùng chư đại Bồ Tát sẽ cùng hiện thân bảo hộ, giúp cho thân tâm đều được an yên, xóa bỏ mọi ưu phiền, chẳng lo yêu ma quấy phá.
“Phổ Hiền diên mệnh kinh kí” nói rằng: Phổ Hiền Bồ Tát có sức mạnh vô cùng, có khả năng kéo dài tuổi thọ. Ngài là đại diện cho lễ đức và hành thiện, tượng trưng cho chân lý. Ngài dùng trí tuệ dẫn lối chúng sinh, dùng hành động để làm gương cho muôn dân, hoàn thành những ước nguyện của người cầu Phật, còn được dân chúng tôn làm “Đại hành Phổ Hiền Bồ Tát”.
Ngày Phổ Hiền Bồ Tát đản sinh: ngày 21 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Người sinh năm Ngọ có Phật độ mệnh là Đại Thế Chí Bồ Tát, ban cho người tuổi Ngọ ánh sáng trí tuệ, giúp đường đời được thuận buồm xuôi gió, sự nghiệp hanh thông. Ánh sáng vĩnh hằng Phật pháp sẽ hóa sát trừ hung, ban điều như ý cát tường, chỉ lối dẫn đường cho người tuổi Ngọ phát huy năng lực để đạt đến lý tưởng cao nhất.
Đại Thế Chí Bồ Tát là vị hành giả bên cạnh Phật A di đà, còn gọi là Đại Tinh Tiến Bồ Tát, gọi tắt là Thế Chí. Đại Thế Chí Bồ Tát cùng Phật A di đà và Quan Thế Âm Bồ Tát (Quan Âm nghìn mắt nghìn tay) hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
“Bi Hoa kinh” kể rằng trước đây có một vị chuyển luân Thánh Vương, đại thái tử là Quan Thế Âm Bồ Tát, nhị thái tử là Đại Thế Chí Bồ Tát, tam thái tử là Văn Thù Bồ Tát, tứ thái tử là Phổ Hiền Bồ Tát. Chuyển luân Thánh Vương về sau tu hành thành Phật, chính là Phật A di đà của giới Tây phương cực lạc, Quan Thế Âm Bồ Tát cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đi theo vua cha phò trợ tả hữu hai bên.
“Quan vô lượng thọ kinh” ghi rằng: Đại Thế Chí Bồ Tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp nhân gian, giúp chúng sinh thoát khỏi nạn đao binh cũng như thiên tai bão lụt, công đức vô lượng, uy thế vô biên. Đại Thế Chí Bồ Tát là ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh.
Ngày Đại Thế Chí Bồ Tát đản sinh: ngày 13 tháng 7 âm lịch.
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Người sinh năm Mùi, năm Thân có Phật độ mệnh là Đại Nhật Như Lai, Ngài là biểu tượng của ánh sáng và trí tuệ, giúp người tuổi Mùi, tuổi Thân luôn giữ được tinh thần minh mẫn, trừ yêu tránh tà, cảm nhận được tinh hoa vạn vật, hấp thu linh khí đất trời, vững vàng tiến lên phía trước, cuộc đời sáng lạn, hạnh phúc.
Đại Nhật Như Lai là tôn xưng chí cao vô thượng trong Phật giáo Mật tông, là Đức Phật cấp cao nhất trong Mật tông. Theo đó, tất cả các đức Phật và Bồ Tát đều do Đại Nhật Như Lai mà ra, Đại Nhật Như Lai đứng đầu chỉ huy tất cả, là đức Phật khởi sinh trong giới Phật giáo Mật tông.
“Đại nhật” có nghĩa là thắng cả mặt trời, Đại Nhật Như Lai có thể phá bỏ mọi tà pháp, xóa mọi trở ngại trong chốn nhân gian, công đức viên mãn, đem ánh sáng trí tuệ chiếu sáng muôn nơi, không còn đêm đen che giấu, khởi nguồn sinh sôi Phật Tâm. Ánh sáng trí tuệ của Đại Nhật Như Lai khơi gợi tâm thiện trong mỗi con người.
Tuổi Dậu: Bất Động Minh Vương
Người sinh năm Dậu có Phật độ mệnh là Bất Động Minh Vương – Bất Động Tôn Bồ Tát, tượng trưng cho lý trí, trí tuệ. Ngài sẽ thầm lặng đi theo bảo vệ, giúp cho người tuổi Dậu trên đường đời phân biệt phải trái đúng sai, nắm bắt cơ hội đến với mình, sử dụng trí tuệ để ứng phó với khó khăn, vượt qua nghịch cảnh, có được sự nghiệp thành công, gia đình hạnh phúc. Đeo tượng Phật bản mệnh Bất Động Tôn Bồ Tát có những điều cấm kị, bạn đừng bỏ qua nhé.
Bất Động Tôn Bồ Tát còn có tên tiếng Phạn là Acalanatha, nghĩa là Bất Động Tôn hay Vô Động Tôn. Giáo giới tôn ngài làm Bất Động Minh Vương, là sứ giả bất động. “Bất động” ở đây chỉ tâm từ bi bền vững không chút dao động lung lay, còn “Minh” chỉ ánh sáng trí tuệ.
Chỉ cần nhìn thấy Bất Động Tôn Bồ Tát là tự phát thiện tâm, nghe thấy tên là đoạn mọi ác tâm, nghe thấy pháp danh như được thêm trí tuệ, hiểu rõ tâm tư thì có cơ may thành Phật.
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Người sinh năm Tuất, năm Hợi có Phật độ mệnh là Phật A di đà, tượng trưng cho ánh sáng, phúc thọ, bảo hộ cho người tuổi Tuất, tuổi Hợi trí tuệ hơn người, xóa bỏ phiền não, mệt mỏi, kiên cường gây dựng cơ đồ, hưởng đời an lạc.
Phật A di đà còn có tên tiếng Phạn là Amitayusa (Vô Lượng Thọ), Amitaba (Vô Lượng Quang). Ngài còn được gọi là Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Quang, Phật Quan Tự Tại Vương, Cam Lộ Vương. Phật A di đà là giáo chủ trong giới Tây phương cực lạc, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tài hợp thành “Tây Phương Tam Thánh”.
Theo ghi chép cổ, từ thời xa xưa, Ngài vốn được giáo hóa bởi Phật Thế Tự Tại Vương, nguyện gây dựng Phật Quốc tận thiện tận mĩ (nơi cực lạc), dùng cách đi độ hóa chúng sinh, phát 48 lời thề nguyện, nhờ đó tu hành thành Phật A di đà. Những ai có cơ may gặp được Ngài thì có thể thoát khỏi mọi nỗi thống khổ trên đời.
Ngày Phật A di đà đản sinh: ngày 17 tháng 11 âm lịch. (Đây kì thực là ngày sinh của Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, tương truyền là đấng tái sinh của Phật A di đà.)
Các mẫu Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá tại cơ sở Tín Khôi:
Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết DCG14 – Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà ?
Vậy Rốt Cuộc Thì Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Không? Câu Trả Lời Chắc Chắn Là Có. Việc Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Sẽ Giúp Quý Phật Tử Được Nương Nhờ Vào Sự Đại Bi Của Ngài. Được Nương Vào Ngài Mà Học Theo Công Hạnh Của Ngài.
Và khi học theo công hạnh Địa Tạng Vương Bồ Tát, một cứu độ hết thảy chúng sanh thì tâm của quý vị sẽ bớt phiền não, chuyển thức thành trí, sớm ngày đắc Phật quả. Quý Phật tử nên hiểu và thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà, thờ Ngài ngoài việc được học theo hạnh độ của Ngài còn được Ngài phụ hộ giúp xua đuổi những vong linh quấy phá.
>>>>Xem Thêm:Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Một số lợi ích khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà:
Đối với cuộc sống hiện tại, nếu quý vị thành tâm nguyện cầu, tụng niệm danh hiệu Ngài sẽ được ban cho trí hệ lớn, những ước nguyện sớm ngày đạt được thành tựu. Bản thân cũng như gia đình sẽ được tiêu trừ hoạn nạn, tội chướng lẫn bệnh tật. Được Địa Tạng Vương Bồ Tát phù hộ tai qua nạn khỏi.
Đối với kiếp sau, khi thờ Địa Tạng Bồ Tát sẽ được Ngài phù hộ, kiếp sau tránh được khỏi thân nữ, được thân xinh đẹp, thoát khỏi kiếp nô lệ. Cuộc sống của kiếp sau sẽ an nhàn, sung túc, nghèo hèn tự đi xa.
Với những người sắp lâm chung, tụng kinh Địa Tạng và làm điều thiện sẽ giúp họ kéo dài thời gian sống. 49 ngày sau khi mất thường xuyên tụng kinh Địa Tạng sẽ giúp người quá cố sớm ngày siêu thoát.
Với những người đã quá vãng, thờ Địa Tạng Vương thì sẽ được siêu độ, gặp lại được người thân đã mất. Trong giấc ngủ thường gặp ma quỷ, người lạ, ác mộng, thì chí tâm tụng Địa Tạng Kinh sẽ được Ngài phù hộ cho an lành.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Kinh Phật có dạy rằng: “dốc lòng niệm tụng Bồ Tát Địa Tạng hoặc lễ bái cúng dường hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng thì xa lìa khổ não, không đọa ác đạo, thành tựu được 28 điều lợi ích. Trời rồng hộ niệm, quả lành ngày thêm lớn, chứa góp nhân vô lượng. Không lui sụt đạo giác ngộ, áo cơm đầy đủ, không bị bệnh dịch, khỏi nạn lửa nước. Không có giặc hại, người thấy cung kính, quỷ thần hộ trì…”
Ý Nghĩa Của Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương bồ tát, tay trái cầm như ý châu, tay phải cầm tích trượng có 6 vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi có nghĩa muốn cứu độ hết mọi chúng sinh trên thế gian. Sứ mệnh của Ngài – Địa Tạng Vương bồ tát là để cứu độ mọi chúng sinh từ trên trời cho tới địa ngục.
Bên cạnh ý nghĩa vĩ đại cứu độ hết thảy chúng sanh trong lục giới, tượng Địa Tạng Bồ Tát còn mang ý nghĩa sâu xa. Đó chính là biểu tượng cho tâm địa của mỗi chúng ta. Địa có nghĩa là mặt đất, Tạng có nghĩa là dung chứa. Mặt đất có thể dung chứa tất cả mọi vật, thì tâm con người cũng vậy, dung chứa cả cái thiện và cái ác. Bồ Tát Địa Tạng nguyện cứu độ mọi chúng sinh trong địa ngục mới thành Phật, cũng như người tu hành nguyện chuyển hóa tất cả những hạt giống xấu ác trong tâm thành điều thiện, như vậy cũng đã là thành Phật.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Cách Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà
Ông bà ta có câu “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Do đó, khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà quý Phật tử cũng nên lưu ý một số điều.
Về tượng Phật, quý vị Phật tử nên chọn những tôn tượng Địa Tạng Bồ Tát có diện mạo cân đối, gương mặt toát lên được sự từ bi hỷ xả. Không chọn những tôn tượng có khuôn mặt cau có, hay những bức tượng sứt mẻ, không hoàn thiện. Vì đây là điều thể hiện sự bất kính đối với Đức Phật.
Trước khi thờ Phật, quý vị cần phải lựa được ngày tốt. Bởi thỉnh Phật về thờ tại gia không phải chuyện đùa, việc này cần phải nghiêm túc, chấp hành đúng những lễ nghi cần thiết trước khi thờ Phật tại gia. Khi đặt Phật Địa Tạng lên bàn thờ thì không được để ngang hàng với bàn thờ gia tiên. Bàn thờ Phật phải được đặt cao hơn bàn thờ gia tiên.
Cúng Dường Địa Tạng Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá cưỡi thú
Kinh Địa Tạng chính là bộ Kinh đầu tiên Ngài Tuyên Hóa đọc được, Kinh Địa Tạng cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy giảng và đó cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy quỳ hành trì tụng. Ngài Tuyên Hóa từng nói: “những ai muốn thay đổi cuộc đời số mệnh của mình, những ai muốn được theo tôi qua bên Mỹ học tập ở Vạn Phật Thánh Thành dưới sự dẫn dắt của tôi, mà hiện tại chưa đủ điều kiện, chưa đủ khả năng. Học Kinh Địa Tạng, Ngài Đại Tạng sẽ gia hộ, các vị sẽ được đi theo tôi”. Quý Phật tử nào muốn thay đổi cuộc đời của mình thì hãy học thuộc Kinh Địa Tạng. Đây chính là Pháp cúng dường Địa Tạng Bồ Tát.
Những ai khuyên bảo mọi người theo Ngài Địa Tạng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng. Pháp cúng dường lớn hơn những vật cúng dường gấp trăm ngàn lần. Học 1 phẩm Kinh Địa Tạng cũng là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng, chép Kinh Địa Tạng cũng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng.
Khi con người mất đi, đọa xuống địa ngục, bị Diêm Vương kết tội. Nếu người đó từng học thuộc Kinh Địa Tạng, hay 1 phẩm hoặc 1 bài kệ trong đó thì sẽ được thả và không bị trách tội.
Kinh Địa Tạng phẩm thứ 12 có ghi lại rằng những người chí tâm quy y Ngài Địa Tạng từ kiếp này trở về sau vĩnh viễn không còn bị đọa vào 3 ác đạo, Ngài Địa Tạng sẽ bảo hộ cho.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá Cà Rốt – DT75 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Mỗi người khi sinh ra đều được Phật đi theo phù hộ, tương ứng với từng năm sinh mà đức Phật độ mệnh cho mỗi người lại khác nhau. Vậy bạn đã biết Phật bản mệnh của từng con giáp là ai chưa?
Trong sách “Pháp uyển châu lâm” của nhà phật có viết: “Bên ngoài cõi Diêm Phù Đề, bên trong bốn biển có 12 loài thú được Bồ Tát giáo hóa. Khi cõi người mới sinh ra, Bồ Tát phân nhiệm vụ những loài thú này bảo vệ, nhận được lợi ích nên 12 con giáp cũng dựa vào đó để đặt ra…”. Mỗi con giáp sẽ thuộc quản lý và nhận được sự độ mệnh của một vị Phật khác nhau. Những vị phật này sẽ bảo hộ và mang đến may mắn, sức khỏe, thành công cho những con giáp này.
Phật độ mệnh không phân biệt giàu nghèo, giới tính. Vì thế nếu muốn cầu bình an, may mắn, thành công thì nên đeo vòng hoặc dây có hình vị phật độ mệnh cho con giáp của mình và làm việc tốt kết hợp cùng hướng tới vị phật bản mệnh để cầu phúc.
Phật bản mệnh được phân định theo tuổi (con giáp) như sau
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Tuổi Dậu: Bất Động Tôn Bồ Tát
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Tùy theo năm sinh mà ta phân định con giáp nào được Phật nào độ mệnh. Phật bản mệnh không thay đổi theo năm. Theo quan niệm dân gian, Phật bản mệnh sẽ bảo hộ cho bạn được bình an, cuộc sống thuận buồm xuôi gió.
Bạn nên biết Phật bản mệnh của mình là ai, điều đó sẽ giúp ích rất nhiều cho cuộc sống sau này của bạn. Đơn giản như khi đi chùa cầu an lễ Phật, ta biết hướng về ai kêu cầu, ước nguyện. Phật không phân sang hèn, không phân già trẻ, chỉ cần bạn thành tâm cầu khấn thì mỗi đức Phật đều có công đức vô lượng, có thể bảo hộ cho ta vượt mọi khó khăn. Bày tượng Phật bản mệnh hoặc đeo vòng có mặt hình tượng Phật bản mệnh, bạn sẽ có được bình an, may mắn và hạnh phúc như ý.
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Người sinh năm Tý có Phật độ mệnh là Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, biểu trưng cho đại từ đại bi. Ngài sẽ giúp bạn vượt qua được mọi khó khăn trong cuộc sống, có đủ ý chí và niềm tin để chiến thắng mọi bệnh tật. Khi vận may của bạn tìm đến, Ngài sẽ góp sức để vận thế của bạn thêm huy hoàng, xán lạn. Ngược lại, nếu bạn đang gặp vận rủi, Ngài sẽ giúp bạn hóa giải khó khăn, vượt qua hoạn nạn một cách để cuộc sống bình an, hạnh phúc và may mắn.
Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay là một trong tứ đại Bồ Tát. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay và Đại Thế Chí Bồ Tát là người phò trợ truyền bá Thánh pháp cho Phật A di đà. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cùng với Phật A di đà và Đại Thế Chí Bồ Tát hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
Điển tích Phật giáo có ghi chép lại, nghìn tay của Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dùng để cứu hộ chúng sinh, còn nghìn mắt để dõi khắp nhân gian. Sau thời nhà Đường ở Trung Quốc, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dần dần được rất nhiều chùa chiền thờ phụng. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thường lấy 42 cánh tay tượng trưng cho nghìn tay, trên mỗi cánh tay đều có một mắt.
Chữ “nghìn” trong Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thể hiện sự vô lượng và viên mãn, nghìn tay từ bi dang rộng cứu giúp chúng sinh, nghìn mắt trí tuệ soi thấu khắp cõi trần gian. Theo “Kinh Đà la ni”: Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay phổ độ chúng sinh, thỏa mãn mọi ước nguyện, giúp dân chúng sống đời an lạc.
Ngày Quan Âm nghìn mắt nghìn tay đản sinh: ngày 19 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Người sinh năm Sửu, năm Dần có Phật độ mệnh là Hư Không Tạng Bồ Tát, đại diện cho sự thành thực và sung túc. Bất hư bất không là Thần Tài của Phật giới, khi bạn mang theo mình mặt ngọc Hư Không Tạng Bồ Tát, ngài sẽ giúp bạn mở lối thoát nguy nan, tránh hao tài phá của, vận thế tài lộc tăng tiến không ngừng, lại càng thêm sinh tài tụ lộc, được Bát Phương quý nhân tương trợ, đánh đuổi tiểu nhân, tiền tài vượng phát.
Tên phiên âm theo tiếng Phạn của Hư Không Tạng Bồ Tát là Akasagarbha, mật danh là Khố Tạng Kim Cương. Hư Không Tạng Bồ Tát là Đệ nhất phù thần của Tam Thế Chư Phật, công đức khắp hư không, thông tuệ mọi điều trên thế gian này, có tâm nhẫn nhịn tựa kim cương, ý chí kiên cường như gió lớn, đẩy lùi mọi cám dỗ trên đời. Đọc thông “Hư Không Tạng chú” có thể giữ tâm kiên định, tăng cường trí nhớ, thúc đẩy chí tiến thủ.
Hư Không Tạng Bồ Tát có sức mạnh ban tạng niềm vui và tài lộc. “Tạng” thể hiện phúc đức trí tuệ vô biên, “Hư Không” thể hiện sự rộng lớn khôn cùng, “Đại phương đẳng đại tập kinh” có chỉ rõ: Hư Không Tạng tựa như phú ông, chúng sinh đói khổ chỉ cần đến trước mặt Bồ Tát kêu cầu là được cứu tế. Vì thế mà Hư Không Tạng Bồ Tát còn được biết đến là vị Bồ Tát coi cứu độ chúng sinh là niềm vui.
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Người sinh năm Mão có Phật độ mệnh là Văn Thù Bồ Tát, biểu trưng của đại trí tuệ, có thể thắp lên ánh sáng tinh thần, khai sáng tư duy, tăng cao ngộ tính. Ngài giúp cho đường học hành thuận lợi, hoạn lộ thênh thang, phúc lộc đầy nhà. Người tuổi Mão sẽ càng thêm sáng tạo, ý chí kiên cường, đủ sức cạnh tranh và chiến thắng đối phương, sự nghiệp thăng tiến không ngừng.
Danh xưng theo âm tiếng Phạn của Văn Thù Bồ Tát là Manjusri, hay còn gọi là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. “Đại Nhật kinh” ghi rằng: Diệu Cát Tường, Văn Thù hay Mạn Thù đều mang nghĩa chỉ điều kì diệu, còn Sư Lợi hay Thất Lợi có nghĩa là phúc đức hay cát tường, gọi đơn giản là Văn Thù.
Văn Thù Bồ Tát là thị giả theo hầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đại đệ tử của Đức Phật. Văn Thù Bồ Tát, Phật Thích Ca Mâu Ni và Phổ Hiền Bồ Tát được dân gian tôn là “Hoa Nghiêm Tam Thánh”. Văn Thù Bồ Tát là bậc đại trí dùng trí tuệ dẫn đường chúng sinh, tài năng đức độ đứng đầu trong các vị Bồ Tát, là biểu trưng cho trí tuệ.
Văn Thù Bồ Tát còn được gọi là Pháp Vương Tử, đại diện cho trí tuệ, mặc đồ màu tím vàng như Đồng tử, đỉnh đầu có 5 xoáy, tóc búi cao. Tay phải cầm Kim cương bảo kiếm (tượng trưng cho sự sắc bén của trí tuệ), có thể chém ma trừ tà, chặt đứt mọi nỗi muộn phiền. Tay phải cầm búp sen xanh, trong búp hoa có cuốn kinh Kim cương, tượng trưng cho trí tuệ vô thượng, cưỡi trên lưng sư tử (biểu trưng cho sức mạnh của trí tuệ).
Ngày Văn Thù Bồ Tát đản sinh: ngày 4 tháng 4 âm lịch.
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Người sinh năm Thìn, năm Tị có Phật độ mệnh là Phổ Hiền Bồ Tát, đại diện cho lý trí, đức độ và đại hành nguyện. Ngài sẽ đi theo phù hộ cho người tuổi Thìn, tuổi Tị hoàn thành ước nguyện, trừ bỏ tiểu nhân, tăng thêm khí thế, quyền uy của người lãnh đạo, giúp bạn cầu được ước thấy, hạnh phúc mỹ mãn.
Tên tiếng Phạn của Phổ Hiền Bồ Tát là Samantabhadra. Phổ Hiền Bồ Tát đi theo phù trợ, truyền bá Phật giáo cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng với Văn Thù Bồ Tát hợp thành “Hoa Nghiêm Tam Thánh”.
Phổ Hiền Bồ Tát có lời nguyện rằng: “Phổ hiền hành nguyện uy thần lực, phổ hiện nhất thiết như lai tiền”. Phổ Hiền Bồ Tát truyền bá Phật pháp thập phương công đức vô lượng, còn tu hành đạo hạnh vô thượng, có thể độ vô biên hữu tình, dùng trí tuệ để thỏa nguyện chúng sinh, giúp muôn dân biết đến đạo Phật.
Phổ Hiền Bồ Tát hành thiện vô số, phân thân trong tích tắc, tùy duyên giáo hóa chúng sinh. Dân gian còn gọi Ngài là Thập Đại Nguyện Vương, “Pháp Hoa kinh” ghi rằng: chỉ cần thành tâm tín phật là Phổ Hiền Bồ Tát cùng chư đại Bồ Tát sẽ cùng hiện thân bảo hộ, giúp cho thân tâm đều được an yên, xóa bỏ mọi ưu phiền, chẳng lo yêu ma quấy phá.
“Phổ Hiền diên mệnh kinh kí” nói rằng: Phổ Hiền Bồ Tát có sức mạnh vô cùng, có khả năng kéo dài tuổi thọ. Ngài là đại diện cho lễ đức và hành thiện, tượng trưng cho chân lý. Ngài dùng trí tuệ dẫn lối chúng sinh, dùng hành động để làm gương cho muôn dân, hoàn thành những ước nguyện của người cầu Phật, còn được dân chúng tôn làm “Đại hành Phổ Hiền Bồ Tát”.
Ngày Phổ Hiền Bồ Tát đản sinh: ngày 21 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Người sinh năm Ngọ có Phật độ mệnh là Đại Thế Chí Bồ Tát, ban cho người tuổi Ngọ ánh sáng trí tuệ, giúp đường đời được thuận buồm xuôi gió, sự nghiệp hanh thông. Ánh sáng vĩnh hằng Phật pháp sẽ hóa sát trừ hung, ban điều như ý cát tường, chỉ lối dẫn đường cho người tuổi Ngọ phát huy năng lực để đạt đến lý tưởng cao nhất.
Đại Thế Chí Bồ Tát là vị hành giả bên cạnh Phật A di đà, còn gọi là Đại Tinh Tiến Bồ Tát, gọi tắt là Thế Chí. Đại Thế Chí Bồ Tát cùng Phật A di đà và Quan Thế Âm Bồ Tát (Quan Âm nghìn mắt nghìn tay) hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
“Bi Hoa kinh” kể rằng trước đây có một vị chuyển luân Thánh Vương, đại thái tử là Quan Thế Âm Bồ Tát, nhị thái tử là Đại Thế Chí Bồ Tát, tam thái tử là Văn Thù Bồ Tát, tứ thái tử là Phổ Hiền Bồ Tát. Chuyển luân Thánh Vương về sau tu hành thành Phật, chính là Phật A di đà của giới Tây phương cực lạc, Quan Thế Âm Bồ Tát cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đi theo vua cha phò trợ tả hữu hai bên.
“Quan vô lượng thọ kinh” ghi rằng: Đại Thế Chí Bồ Tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp nhân gian, giúp chúng sinh thoát khỏi nạn đao binh cũng như thiên tai bão lụt, công đức vô lượng, uy thế vô biên. Đại Thế Chí Bồ Tát là ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh.
Ngày Đại Thế Chí Bồ Tát đản sinh: ngày 13 tháng 7 âm lịch.
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Người sinh năm Mùi, năm Thân có Phật độ mệnh là Đại Nhật Như Lai, Ngài là biểu tượng của ánh sáng và trí tuệ, giúp người tuổi Mùi, tuổi Thân luôn giữ được tinh thần minh mẫn, trừ yêu tránh tà, cảm nhận được tinh hoa vạn vật, hấp thu linh khí đất trời, vững vàng tiến lên phía trước, cuộc đời sáng lạn, hạnh phúc.
Đại Nhật Như Lai là tôn xưng chí cao vô thượng trong Phật giáo Mật tông, là Đức Phật cấp cao nhất trong Mật tông. Theo đó, tất cả các đức Phật và Bồ Tát đều do Đại Nhật Như Lai mà ra, Đại Nhật Như Lai đứng đầu chỉ huy tất cả, là đức Phật khởi sinh trong giới Phật giáo Mật tông.
“Đại nhật” có nghĩa là thắng cả mặt trời, Đại Nhật Như Lai có thể phá bỏ mọi tà pháp, xóa mọi trở ngại trong chốn nhân gian, công đức viên mãn, đem ánh sáng trí tuệ chiếu sáng muôn nơi, không còn đêm đen che giấu, khởi nguồn sinh sôi Phật Tâm. Ánh sáng trí tuệ của Đại Nhật Như Lai khơi gợi tâm thiện trong mỗi con người.
Tuổi Dậu: Bất Động Minh Vương
Người sinh năm Dậu có Phật độ mệnh là Bất Động Minh Vương – Bất Động Tôn Bồ Tát, tượng trưng cho lý trí, trí tuệ. Ngài sẽ thầm lặng đi theo bảo vệ, giúp cho người tuổi Dậu trên đường đời phân biệt phải trái đúng sai, nắm bắt cơ hội đến với mình, sử dụng trí tuệ để ứng phó với khó khăn, vượt qua nghịch cảnh, có được sự nghiệp thành công, gia đình hạnh phúc. Đeo tượng Phật bản mệnh Bất Động Tôn Bồ Tát có những điều cấm kị, bạn đừng bỏ qua nhé.
Bất Động Tôn Bồ Tát còn có tên tiếng Phạn là Acalanatha, nghĩa là Bất Động Tôn hay Vô Động Tôn. Giáo giới tôn ngài làm Bất Động Minh Vương, là sứ giả bất động. “Bất động” ở đây chỉ tâm từ bi bền vững không chút dao động lung lay, còn “Minh” chỉ ánh sáng trí tuệ.
Chỉ cần nhìn thấy Bất Động Tôn Bồ Tát là tự phát thiện tâm, nghe thấy tên là đoạn mọi ác tâm, nghe thấy pháp danh như được thêm trí tuệ, hiểu rõ tâm tư thì có cơ may thành Phật.
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Người sinh năm Tuất, năm Hợi có Phật độ mệnh là Phật A di đà, tượng trưng cho ánh sáng, phúc thọ, bảo hộ cho người tuổi Tuất, tuổi Hợi trí tuệ hơn người, xóa bỏ phiền não, mệt mỏi, kiên cường gây dựng cơ đồ, hưởng đời an lạc.
Phật A di đà còn có tên tiếng Phạn là Amitayusa (Vô Lượng Thọ), Amitaba (Vô Lượng Quang). Ngài còn được gọi là Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Quang, Phật Quan Tự Tại Vương, Cam Lộ Vương. Phật A di đà là giáo chủ trong giới Tây phương cực lạc, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tài hợp thành “Tây Phương Tam Thánh”.
Theo ghi chép cổ, từ thời xa xưa, Ngài vốn được giáo hóa bởi Phật Thế Tự Tại Vương, nguyện gây dựng Phật Quốc tận thiện tận mĩ (nơi cực lạc), dùng cách đi độ hóa chúng sinh, phát 48 lời thề nguyện, nhờ đó tu hành thành Phật A di đà. Những ai có cơ may gặp được Ngài thì có thể thoát khỏi mọi nỗi thống khổ trên đời.
Ngày Phật A di đà đản sinh: ngày 17 tháng 11 âm lịch. (Đây kì thực là ngày sinh của Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, tương truyền là đấng tái sinh của Phật A di đà.)
Các mẫu Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá tại cơ sở Tín Khôi:
Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết DCG18 – Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà ?
Vậy Rốt Cuộc Thì Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Không? Câu Trả Lời Chắc Chắn Là Có. Việc Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Sẽ Giúp Quý Phật Tử Được Nương Nhờ Vào Sự Đại Bi Của Ngài. Được Nương Vào Ngài Mà Học Theo Công Hạnh Của Ngài.
Và khi học theo công hạnh Địa Tạng Vương Bồ Tát, một cứu độ hết thảy chúng sanh thì tâm của quý vị sẽ bớt phiền não, chuyển thức thành trí, sớm ngày đắc Phật quả. Quý Phật tử nên hiểu và thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà, thờ Ngài ngoài việc được học theo hạnh độ của Ngài còn được Ngài phụ hộ giúp xua đuổi những vong linh quấy phá.
>>>>Xem Thêm:Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Một số lợi ích khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà:
Đối với cuộc sống hiện tại, nếu quý vị thành tâm nguyện cầu, tụng niệm danh hiệu Ngài sẽ được ban cho trí hệ lớn, những ước nguyện sớm ngày đạt được thành tựu. Bản thân cũng như gia đình sẽ được tiêu trừ hoạn nạn, tội chướng lẫn bệnh tật. Được Địa Tạng Vương Bồ Tát phù hộ tai qua nạn khỏi.
Đối với kiếp sau, khi thờ Địa Tạng Bồ Tát sẽ được Ngài phù hộ, kiếp sau tránh được khỏi thân nữ, được thân xinh đẹp, thoát khỏi kiếp nô lệ. Cuộc sống của kiếp sau sẽ an nhàn, sung túc, nghèo hèn tự đi xa.
Với những người sắp lâm chung, tụng kinh Địa Tạng và làm điều thiện sẽ giúp họ kéo dài thời gian sống. 49 ngày sau khi mất thường xuyên tụng kinh Địa Tạng sẽ giúp người quá cố sớm ngày siêu thoát.
Với những người đã quá vãng, thờ Địa Tạng Vương thì sẽ được siêu độ, gặp lại được người thân đã mất. Trong giấc ngủ thường gặp ma quỷ, người lạ, ác mộng, thì chí tâm tụng Địa Tạng Kinh sẽ được Ngài phù hộ cho an lành.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Kinh Phật có dạy rằng: “dốc lòng niệm tụng Bồ Tát Địa Tạng hoặc lễ bái cúng dường hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng thì xa lìa khổ não, không đọa ác đạo, thành tựu được 28 điều lợi ích. Trời rồng hộ niệm, quả lành ngày thêm lớn, chứa góp nhân vô lượng. Không lui sụt đạo giác ngộ, áo cơm đầy đủ, không bị bệnh dịch, khỏi nạn lửa nước. Không có giặc hại, người thấy cung kính, quỷ thần hộ trì…”
Ý Nghĩa Của Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương bồ tát, tay trái cầm như ý châu, tay phải cầm tích trượng có 6 vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi có nghĩa muốn cứu độ hết mọi chúng sinh trên thế gian. Sứ mệnh của Ngài – Địa Tạng Vương bồ tát là để cứu độ mọi chúng sinh từ trên trời cho tới địa ngục.
Bên cạnh ý nghĩa vĩ đại cứu độ hết thảy chúng sanh trong lục giới, tượng Địa Tạng Bồ Tát còn mang ý nghĩa sâu xa. Đó chính là biểu tượng cho tâm địa của mỗi chúng ta. Địa có nghĩa là mặt đất, Tạng có nghĩa là dung chứa. Mặt đất có thể dung chứa tất cả mọi vật, thì tâm con người cũng vậy, dung chứa cả cái thiện và cái ác. Bồ Tát Địa Tạng nguyện cứu độ mọi chúng sinh trong địa ngục mới thành Phật, cũng như người tu hành nguyện chuyển hóa tất cả những hạt giống xấu ác trong tâm thành điều thiện, như vậy cũng đã là thành Phật.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Cách Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà
Ông bà ta có câu “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Do đó, khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà quý Phật tử cũng nên lưu ý một số điều.
Về tượng Phật, quý vị Phật tử nên chọn những tôn tượng Địa Tạng Bồ Tát có diện mạo cân đối, gương mặt toát lên được sự từ bi hỷ xả. Không chọn những tôn tượng có khuôn mặt cau có, hay những bức tượng sứt mẻ, không hoàn thiện. Vì đây là điều thể hiện sự bất kính đối với Đức Phật.
Trước khi thờ Phật, quý vị cần phải lựa được ngày tốt. Bởi thỉnh Phật về thờ tại gia không phải chuyện đùa, việc này cần phải nghiêm túc, chấp hành đúng những lễ nghi cần thiết trước khi thờ Phật tại gia. Khi đặt Phật Địa Tạng lên bàn thờ thì không được để ngang hàng với bàn thờ gia tiên. Bàn thờ Phật phải được đặt cao hơn bàn thờ gia tiên.
Cúng Dường Địa Tạng Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá cưỡi thú
Kinh Địa Tạng chính là bộ Kinh đầu tiên Ngài Tuyên Hóa đọc được, Kinh Địa Tạng cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy giảng và đó cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy quỳ hành trì tụng. Ngài Tuyên Hóa từng nói: “những ai muốn thay đổi cuộc đời số mệnh của mình, những ai muốn được theo tôi qua bên Mỹ học tập ở Vạn Phật Thánh Thành dưới sự dẫn dắt của tôi, mà hiện tại chưa đủ điều kiện, chưa đủ khả năng. Học Kinh Địa Tạng, Ngài Đại Tạng sẽ gia hộ, các vị sẽ được đi theo tôi”. Quý Phật tử nào muốn thay đổi cuộc đời của mình thì hãy học thuộc Kinh Địa Tạng. Đây chính là Pháp cúng dường Địa Tạng Bồ Tát.
Những ai khuyên bảo mọi người theo Ngài Địa Tạng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng. Pháp cúng dường lớn hơn những vật cúng dường gấp trăm ngàn lần. Học 1 phẩm Kinh Địa Tạng cũng là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng, chép Kinh Địa Tạng cũng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng.
Khi con người mất đi, đọa xuống địa ngục, bị Diêm Vương kết tội. Nếu người đó từng học thuộc Kinh Địa Tạng, hay 1 phẩm hoặc 1 bài kệ trong đó thì sẽ được thả và không bị trách tội.
Kinh Địa Tạng phẩm thứ 12 có ghi lại rằng những người chí tâm quy y Ngài Địa Tạng từ kiếp này trở về sau vĩnh viễn không còn bị đọa vào 3 ác đạo, Ngài Địa Tạng sẽ bảo hộ cho.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá – DT70 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà ?
Vậy Rốt Cuộc Thì Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Không? Câu Trả Lời Chắc Chắn Là Có. Việc Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Sẽ Giúp Quý Phật Tử Được Nương Nhờ Vào Sự Đại Bi Của Ngài. Được Nương Vào Ngài Mà Học Theo Công Hạnh Của Ngài.
Và khi học theo công hạnh Địa Tạng Vương Bồ Tát, một cứu độ hết thảy chúng sanh thì tâm của quý vị sẽ bớt phiền não, chuyển thức thành trí, sớm ngày đắc Phật quả. Quý Phật tử nên hiểu và thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà, thờ Ngài ngoài việc được học theo hạnh độ của Ngài còn được Ngài phụ hộ giúp xua đuổi những vong linh quấy phá.
>>>>Xem Thêm:Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Một số lợi ích khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà:
Đối với cuộc sống hiện tại, nếu quý vị thành tâm nguyện cầu, tụng niệm danh hiệu Ngài sẽ được ban cho trí hệ lớn, những ước nguyện sớm ngày đạt được thành tựu. Bản thân cũng như gia đình sẽ được tiêu trừ hoạn nạn, tội chướng lẫn bệnh tật. Được Địa Tạng Vương Bồ Tát phù hộ tai qua nạn khỏi.
Đối với kiếp sau, khi thờ Địa Tạng Bồ Tát sẽ được Ngài phù hộ, kiếp sau tránh được khỏi thân nữ, được thân xinh đẹp, thoát khỏi kiếp nô lệ. Cuộc sống của kiếp sau sẽ an nhàn, sung túc, nghèo hèn tự đi xa.
Với những người sắp lâm chung, tụng kinh Địa Tạng và làm điều thiện sẽ giúp họ kéo dài thời gian sống. 49 ngày sau khi mất thường xuyên tụng kinh Địa Tạng sẽ giúp người quá cố sớm ngày siêu thoát.
Với những người đã quá vãng, thờ Địa Tạng Vương thì sẽ được siêu độ, gặp lại được người thân đã mất. Trong giấc ngủ thường gặp ma quỷ, người lạ, ác mộng, thì chí tâm tụng Địa Tạng Kinh sẽ được Ngài phù hộ cho an lành.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Kinh Phật có dạy rằng: “dốc lòng niệm tụng Bồ Tát Địa Tạng hoặc lễ bái cúng dường hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng thì xa lìa khổ não, không đọa ác đạo, thành tựu được 28 điều lợi ích. Trời rồng hộ niệm, quả lành ngày thêm lớn, chứa góp nhân vô lượng. Không lui sụt đạo giác ngộ, áo cơm đầy đủ, không bị bệnh dịch, khỏi nạn lửa nước. Không có giặc hại, người thấy cung kính, quỷ thần hộ trì…”
Ý Nghĩa Của Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương bồ tát, tay trái cầm như ý châu, tay phải cầm tích trượng có 6 vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi có nghĩa muốn cứu độ hết mọi chúng sinh trên thế gian. Sứ mệnh của Ngài – Địa Tạng Vương bồ tát là để cứu độ mọi chúng sinh từ trên trời cho tới địa ngục.
Bên cạnh ý nghĩa vĩ đại cứu độ hết thảy chúng sanh trong lục giới, tượng Địa Tạng Bồ Tát còn mang ý nghĩa sâu xa. Đó chính là biểu tượng cho tâm địa của mỗi chúng ta. Địa có nghĩa là mặt đất, Tạng có nghĩa là dung chứa. Mặt đất có thể dung chứa tất cả mọi vật, thì tâm con người cũng vậy, dung chứa cả cái thiện và cái ác. Bồ Tát Địa Tạng nguyện cứu độ mọi chúng sinh trong địa ngục mới thành Phật, cũng như người tu hành nguyện chuyển hóa tất cả những hạt giống xấu ác trong tâm thành điều thiện, như vậy cũng đã là thành Phật.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Cách Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà
Ông bà ta có câu “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Do đó, khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà quý Phật tử cũng nên lưu ý một số điều.
Về tượng Phật, quý vị Phật tử nên chọn những tôn tượng Địa Tạng Bồ Tát có diện mạo cân đối, gương mặt toát lên được sự từ bi hỷ xả. Không chọn những tôn tượng có khuôn mặt cau có, hay những bức tượng sứt mẻ, không hoàn thiện. Vì đây là điều thể hiện sự bất kính đối với Đức Phật.
Trước khi thờ Phật, quý vị cần phải lựa được ngày tốt. Bởi thỉnh Phật về thờ tại gia không phải chuyện đùa, việc này cần phải nghiêm túc, chấp hành đúng những lễ nghi cần thiết trước khi thờ Phật tại gia. Khi đặt Phật Địa Tạng lên bàn thờ thì không được để ngang hàng với bàn thờ gia tiên. Bàn thờ Phật phải được đặt cao hơn bàn thờ gia tiên.
Cúng Dường Địa Tạng Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá cưỡi thú
Kinh Địa Tạng chính là bộ Kinh đầu tiên Ngài Tuyên Hóa đọc được, Kinh Địa Tạng cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy giảng và đó cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy quỳ hành trì tụng. Ngài Tuyên Hóa từng nói: “những ai muốn thay đổi cuộc đời số mệnh của mình, những ai muốn được theo tôi qua bên Mỹ học tập ở Vạn Phật Thánh Thành dưới sự dẫn dắt của tôi, mà hiện tại chưa đủ điều kiện, chưa đủ khả năng. Học Kinh Địa Tạng, Ngài Đại Tạng sẽ gia hộ, các vị sẽ được đi theo tôi”. Quý Phật tử nào muốn thay đổi cuộc đời của mình thì hãy học thuộc Kinh Địa Tạng. Đây chính là Pháp cúng dường Địa Tạng Bồ Tát.
Những ai khuyên bảo mọi người theo Ngài Địa Tạng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng. Pháp cúng dường lớn hơn những vật cúng dường gấp trăm ngàn lần. Học 1 phẩm Kinh Địa Tạng cũng là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng, chép Kinh Địa Tạng cũng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng.
Khi con người mất đi, đọa xuống địa ngục, bị Diêm Vương kết tội. Nếu người đó từng học thuộc Kinh Địa Tạng, hay 1 phẩm hoặc 1 bài kệ trong đó thì sẽ được thả và không bị trách tội.
Kinh Địa Tạng phẩm thứ 12 có ghi lại rằng những người chí tâm quy y Ngài Địa Tạng từ kiếp này trở về sau vĩnh viễn không còn bị đọa vào 3 ác đạo, Ngài Địa Tạng sẽ bảo hộ cho.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Ngồi Bằng Đá – DT73 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà ?
Vậy Rốt Cuộc Thì Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Không? Câu Trả Lời Chắc Chắn Là Có. Việc Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Sẽ Giúp Quý Phật Tử Được Nương Nhờ Vào Sự Đại Bi Của Ngài. Được Nương Vào Ngài Mà Học Theo Công Hạnh Của Ngài.
Và khi học theo công hạnh Địa Tạng Vương Bồ Tát, một cứu độ hết thảy chúng sanh thì tâm của quý vị sẽ bớt phiền não, chuyển thức thành trí, sớm ngày đắc Phật quả. Quý Phật tử nên hiểu và thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà, thờ Ngài ngoài việc được học theo hạnh độ của Ngài còn được Ngài phụ hộ giúp xua đuổi những vong linh quấy phá.
>>>>Xem Thêm:Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Một số lợi ích khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà:
Đối với cuộc sống hiện tại, nếu quý vị thành tâm nguyện cầu, tụng niệm danh hiệu Ngài sẽ được ban cho trí hệ lớn, những ước nguyện sớm ngày đạt được thành tựu. Bản thân cũng như gia đình sẽ được tiêu trừ hoạn nạn, tội chướng lẫn bệnh tật. Được Địa Tạng Vương Bồ Tát phù hộ tai qua nạn khỏi.
Đối với kiếp sau, khi thờ Địa Tạng Bồ Tát sẽ được Ngài phù hộ, kiếp sau tránh được khỏi thân nữ, được thân xinh đẹp, thoát khỏi kiếp nô lệ. Cuộc sống của kiếp sau sẽ an nhàn, sung túc, nghèo hèn tự đi xa.
Với những người sắp lâm chung, tụng kinh Địa Tạng và làm điều thiện sẽ giúp họ kéo dài thời gian sống. 49 ngày sau khi mất thường xuyên tụng kinh Địa Tạng sẽ giúp người quá cố sớm ngày siêu thoát.
Với những người đã quá vãng, thờ Địa Tạng Vương thì sẽ được siêu độ, gặp lại được người thân đã mất. Trong giấc ngủ thường gặp ma quỷ, người lạ, ác mộng, thì chí tâm tụng Địa Tạng Kinh sẽ được Ngài phù hộ cho an lành.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Kinh Phật có dạy rằng: “dốc lòng niệm tụng Bồ Tát Địa Tạng hoặc lễ bái cúng dường hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng thì xa lìa khổ não, không đọa ác đạo, thành tựu được 28 điều lợi ích. Trời rồng hộ niệm, quả lành ngày thêm lớn, chứa góp nhân vô lượng. Không lui sụt đạo giác ngộ, áo cơm đầy đủ, không bị bệnh dịch, khỏi nạn lửa nước. Không có giặc hại, người thấy cung kính, quỷ thần hộ trì…”
Ý Nghĩa Của Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương bồ tát, tay trái cầm như ý châu, tay phải cầm tích trượng có 6 vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi có nghĩa muốn cứu độ hết mọi chúng sinh trên thế gian. Sứ mệnh của Ngài – Địa Tạng Vương bồ tát là để cứu độ mọi chúng sinh từ trên trời cho tới địa ngục.
Bên cạnh ý nghĩa vĩ đại cứu độ hết thảy chúng sanh trong lục giới, tượng Địa Tạng Bồ Tát còn mang ý nghĩa sâu xa. Đó chính là biểu tượng cho tâm địa của mỗi chúng ta. Địa có nghĩa là mặt đất, Tạng có nghĩa là dung chứa. Mặt đất có thể dung chứa tất cả mọi vật, thì tâm con người cũng vậy, dung chứa cả cái thiện và cái ác. Bồ Tát Địa Tạng nguyện cứu độ mọi chúng sinh trong địa ngục mới thành Phật, cũng như người tu hành nguyện chuyển hóa tất cả những hạt giống xấu ác trong tâm thành điều thiện, như vậy cũng đã là thành Phật.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Cách Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà
Ông bà ta có câu “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Do đó, khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà quý Phật tử cũng nên lưu ý một số điều.
Về tượng Phật, quý vị Phật tử nên chọn những tôn tượng Địa Tạng Bồ Tát có diện mạo cân đối, gương mặt toát lên được sự từ bi hỷ xả. Không chọn những tôn tượng có khuôn mặt cau có, hay những bức tượng sứt mẻ, không hoàn thiện. Vì đây là điều thể hiện sự bất kính đối với Đức Phật.
Trước khi thờ Phật, quý vị cần phải lựa được ngày tốt. Bởi thỉnh Phật về thờ tại gia không phải chuyện đùa, việc này cần phải nghiêm túc, chấp hành đúng những lễ nghi cần thiết trước khi thờ Phật tại gia. Khi đặt Phật Địa Tạng lên bàn thờ thì không được để ngang hàng với bàn thờ gia tiên. Bàn thờ Phật phải được đặt cao hơn bàn thờ gia tiên.
Cúng Dường Địa Tạng Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá cưỡi thú
Kinh Địa Tạng chính là bộ Kinh đầu tiên Ngài Tuyên Hóa đọc được, Kinh Địa Tạng cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy giảng và đó cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy quỳ hành trì tụng. Ngài Tuyên Hóa từng nói: “những ai muốn thay đổi cuộc đời số mệnh của mình, những ai muốn được theo tôi qua bên Mỹ học tập ở Vạn Phật Thánh Thành dưới sự dẫn dắt của tôi, mà hiện tại chưa đủ điều kiện, chưa đủ khả năng. Học Kinh Địa Tạng, Ngài Đại Tạng sẽ gia hộ, các vị sẽ được đi theo tôi”. Quý Phật tử nào muốn thay đổi cuộc đời của mình thì hãy học thuộc Kinh Địa Tạng. Đây chính là Pháp cúng dường Địa Tạng Bồ Tát.
Những ai khuyên bảo mọi người theo Ngài Địa Tạng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng. Pháp cúng dường lớn hơn những vật cúng dường gấp trăm ngàn lần. Học 1 phẩm Kinh Địa Tạng cũng là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng, chép Kinh Địa Tạng cũng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng.
Khi con người mất đi, đọa xuống địa ngục, bị Diêm Vương kết tội. Nếu người đó từng học thuộc Kinh Địa Tạng, hay 1 phẩm hoặc 1 bài kệ trong đó thì sẽ được thả và không bị trách tội.
Kinh Địa Tạng phẩm thứ 12 có ghi lại rằng những người chí tâm quy y Ngài Địa Tạng từ kiếp này trở về sau vĩnh viễn không còn bị đọa vào 3 ác đạo, Ngài Địa Tạng sẽ bảo hộ cho.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Ngồi Bằng Đá – DT72 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Là Ai?
Tượng thích ca mâu ni bằng đá tại cơ sở Tín Khôi
Đức Phật Thích Ca khi còn nhỏ, Thái tử Siddhartha Gautama (sau này là Đức Phật) sinh ra tại vườn Lumbini ở thủ đô Kapilavastu của một vương quốc nhỏ nằm dưới chân dãy Himalaya của Ấn Độ cổ đại.
Nhiều người không biết rằng Đức Phật Thích Ca đang nói đến chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài còn có những tên gọi thông thường khác mà người Việt Nam vẫn quen gọi: Đức Phật, Như Lai Phật Tổ, Như Lai Phật Tổ, Tất Đạt Đa Cồ Đàm,… Trong đó, Như Lai là danh hiệu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Đức Phật Thích Ca chính là Thái tử Tất Đạt Đa – người có xuất thân cao quý nhất trong triều đại. Sinh ra tại vương quốc Thích Ca (Shakya – Ca) ngày nay thuộc Ấn Độ. Ngài nhận ra chân lý của chính mình, thoát khỏi luật sinh tử. Đồng thời, Ngài truyền bá những triết lý đó cho con người trên trái đất để họ thoát khỏi đau khổ.
Những lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni luôn hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc, và dù thời gian có trôi đi nhưng những lời dạy về cuộc sống và giới luật được giảng giải vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.
>>>>Xem Thêm:Tượng Phật Thích Ca
Ý Nghĩa Của Việc Thờ Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch trắng nguyên khối
Thờ tượng phật là một nét đẹp trong văn hóa tín ngưỡng tâm linh của người Việt. Dù thờ bất cứ vị Phật nào thì cũng mang lại những ý nghĩa tốt đẹp cho gia chủ. Phật Thích Ca là người dám từ bỏ ngai vàng, phú quý, giàu sang để đi tìm chân lý của cuộc đời với bao khó khăn, đói khổ và đã giác ngộ, giải thoát bản thân khỏi thế tục, Phật Thích Ca chính là người khai sinh ra Phật giáo. Vì vậy, việc thờ Phật Thích ca thể hiện sự giác ngộ của gia chủ: thành tâm hướng thiện, muốn giải thoát mình khỏi các thói xấu tham sân si ở đời và muốn cầu cho gia đạo luôn được an lành, tâm thanh tịnh.
Giúp Con Người Thức Tỉnh Chân Lý Cuộc Sống
Phật giúp con người sớm thức tỉnh nhận ra chân lý của sự khổ đau, thoát khỏi bể khổ để đến với những điều tốt đẹp nhất. Nhờ đó con người được thức tỉnh, nhận ra những điều chân lý và tránh khỏi cái ác, buồn đau cuộc sống.
Thể Hiện Sự Trân Trọng Quá Khứ
Trong gia đình, các gia chủ thường đặt tượng Phật A Di Đà cạnh đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Phật Di Lặc để thể hiện cho quá khứ, hiện tại và tương lai. Có quá khứ mới có hiện tại và hiện tại sẽ cố gắng cho tương lai. Việc thờ tượng Phật thể hiện sự trân trọng quá khứ và công ơn của thần thánh đã phù hộ độ trì cho con người.
Cầu Mong Sự Bình An Và May Mắn
Phật là hiện thân của những điều tốt đẹp, việc thờ Phật mang thông điệp cầu mong sự phù hộ độ trì của Thần phật cho cuộc sống của con người được bình an và may mắn.
Bên cạnh đó, Phật còn giúp con người tránh được những điều xui, vận hạn trong cuộc sống. Tuy nhiên, nên thờ tượng phật nào trong nhà để mang lại những giá trị phong thủy tốt nhất thì gia chủ cũng cần lưu ý kĩ.
Vị Trí Lập Bàn Thờ Tượng Phật Thích Ca Trong Nhà.
Đối với những nhà rộng, có diện tích thì nên dành riêng một gian để thờ Phật riêng. Những ngôi nhà có thiết kế hiện đại còn xây riêng một tần thượng để thờ Phật Thích Ca. Trường hợp không có gian riêng cũng vẫn có thể thờ tượng Phật ở gian chính ở trên các kệ cao được thiết kế một cách trang trọng. Bàn thợ Phật phải luôn được giữ sạch sẽ, lau chùi thường xuyên.
Mặt tượng Phật nên quay về hướng Đông vì đây là hướng mặt trời mọc mà Đức Phật Thích Ca quay ra để thiền định giác ngộ. Hướng bàn thờ nên đặt theo hướng Tây Bắc vì đây là hướng tượng trưng cho trời: Tây thiên cực lạc. Tuyệt đối nên tránh đặt bàn thờ ở hướng Đông Bắc nhìn về Tây Nam và ngược lại vì đây là hai hướng ngũ qủy có rất nhiều xung khí.
Những Điều Nên Và Không Nên Làm Khi Lập Bàn Thờ Tượng Phật Thích Ca Trong Nhà.
Những Điều Nên Làm:
+ Đặt tượng Phật Thích Ca hướng ra cửa chính.
+ Tốt nhất nên thờ tượng Phật Thích Ca ở gian riêng, trên lầu cao nhất của ngôi nhà hay ở những vị trí tôn kính mà không quá ồn ào hay nhiều người qua lại.
+ Tượng trên bàn thờ nên đặt trên miếng giấy lót đỏ.
+ Bàn thờ và tượng nên lau chùi thường xuyên, khăn chậu phải đảm bảo còn mới. Có thể dùng nước sạch, rượu, nước hoa, nước bưởi để lau chùi.
+ Hàng ngày nên thắp hương sáng tối và phải đảm bảo hương còn mới, đồ cúng phải đảm bảo tươi ngon. Nên để đèn bàn thờ luôn luôn bật sáng để thu hút năng lượng dương.
+ Tượng bị cũ, mờ nên tô vẽ lại. Nếu tượng Phật bị hư hỏng quá mức thì dùng giấy vàng gói lại để ngày 1, 3, 5, 7, 9 đốt dưới nắng tiễn tượng Phật quy vị. Không nên bạ đâu bỏ đó mà mang tội.
Những Điều Không Nên Làm:
+ Không được dùng gỗ hay vật liệu đã sử dụng qua làm bàn thờ Phật vì như vậy là bất kính.
+ Trên bàn thờ không được để các dị vật khác.
+ Tượng Phật rất linh thiêng nên không được cất trong các hộp, tủ hay két sắt vì như vậy giống như bạn đang cố nhốt Phật vậy. Hành động này vừa không giúp phù hộ cho gia đình mà còn làm cho các thành viên dễ bị bệnh đau ốm thường xuyên.
+ Tuyệt đối không được để tượng Phật Thích Ca lung tung trong nhà, kị nhất là những nơi không sạch sẽ ẩm thấp.
+ Dù cho nên đặt bàn thờ ở những hướng tốt nhưng không vì thể mà đặt bàn thờ ở những vị trí ồn ào, nhiều người qua lại sẽ làm mất đi sự thanh tịnh nơi thờ cúng.
+ Không đặt tượng Phật Thích Ca ở những nơi riêng tư như phòng ăn, phòng ngủ hoặc hướng mặt về những nơi thiếu trang nghiêm như phòng tắm, bếp hay nhà vệ sinh, dưới xà nhà hay gầm cầu thang…
+ Không nên đặt giường ngủ phía sau bàn thờ Phật Thích Ca vì ngủ sẽ không an giấc và còn hay gặp mộng mị
Một số mẫu tượng Thích Ca mâu ni tại cơ sở điêu khắc Tín Khôi:
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch
Tượng Phật Thích Ca bằng đá cà rốt
Mua Tượng Chân Dung Bằng Đá Ở Đâu Chất Lượng, Uy Tín?
Tượng Thích Ca Mâu Ni Bằng Đá Ấn Độ Nhập Khẩu
Cơ sở khắc đá Tín Khôi chuyên thiết kế và thi công sản phẩm tượng đá, trong đó có tượng Thích Ca mâu ni từ đá tự nhiên, nguyên khối. Tượng Thích Ca mâu ni bằng đá được các nghệ nhân của chúng tôi chế tác rất đa dạng, phong phú về hình ảnh, mẫu mã, kích thước……đảm bảo đáp ứng mọi yêu cầu cũng như tiêu chí của khách hàng. Ngoài sản phẩm tượng Thích Ca mâu ni được nhiều khách hàng tin tưởng và lựa chọn, cơ sở đá Tín Khôi còn nổi trội với các dòng sản phẩm khác như : Tượng Phật bằng đá, tượng đá nghệ thuật, tượng linh vật bằng đá……
Kế thừa và phát huy truyền thống làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước Ngũ Hành Sơn, cơ sở đá mỹ nghệ Tín Khôi là một trong những cơ sở tiêu biểu, nổi bật bậc nhất làng nghề. Được sự công nhận và tin yêu của nhiều khách hàng khắp trên cả nước. Chúng tôi tự tin sẽ mang tới những bức tượng Thích Ca mâu ni tốt nhất, đẹp nhất cho khách hàng.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni Cao 30cm – TC109 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà ?
Vậy Rốt Cuộc Thì Có Nên Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Không? Câu Trả Lời Chắc Chắn Là Có. Việc Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà Sẽ Giúp Quý Phật Tử Được Nương Nhờ Vào Sự Đại Bi Của Ngài. Được Nương Vào Ngài Mà Học Theo Công Hạnh Của Ngài.
Và khi học theo công hạnh Địa Tạng Vương Bồ Tát, một cứu độ hết thảy chúng sanh thì tâm của quý vị sẽ bớt phiền não, chuyển thức thành trí, sớm ngày đắc Phật quả. Quý Phật tử nên hiểu và thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà, thờ Ngài ngoài việc được học theo hạnh độ của Ngài còn được Ngài phụ hộ giúp xua đuổi những vong linh quấy phá.
>>>>Xem Thêm:Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Một số lợi ích khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà:
Đối với cuộc sống hiện tại, nếu quý vị thành tâm nguyện cầu, tụng niệm danh hiệu Ngài sẽ được ban cho trí hệ lớn, những ước nguyện sớm ngày đạt được thành tựu. Bản thân cũng như gia đình sẽ được tiêu trừ hoạn nạn, tội chướng lẫn bệnh tật. Được Địa Tạng Vương Bồ Tát phù hộ tai qua nạn khỏi.
Đối với kiếp sau, khi thờ Địa Tạng Bồ Tát sẽ được Ngài phù hộ, kiếp sau tránh được khỏi thân nữ, được thân xinh đẹp, thoát khỏi kiếp nô lệ. Cuộc sống của kiếp sau sẽ an nhàn, sung túc, nghèo hèn tự đi xa.
Với những người sắp lâm chung, tụng kinh Địa Tạng và làm điều thiện sẽ giúp họ kéo dài thời gian sống. 49 ngày sau khi mất thường xuyên tụng kinh Địa Tạng sẽ giúp người quá cố sớm ngày siêu thoát.
Với những người đã quá vãng, thờ Địa Tạng Vương thì sẽ được siêu độ, gặp lại được người thân đã mất. Trong giấc ngủ thường gặp ma quỷ, người lạ, ác mộng, thì chí tâm tụng Địa Tạng Kinh sẽ được Ngài phù hộ cho an lành.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Kinh Phật có dạy rằng: “dốc lòng niệm tụng Bồ Tát Địa Tạng hoặc lễ bái cúng dường hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng thì xa lìa khổ não, không đọa ác đạo, thành tựu được 28 điều lợi ích. Trời rồng hộ niệm, quả lành ngày thêm lớn, chứa góp nhân vô lượng. Không lui sụt đạo giác ngộ, áo cơm đầy đủ, không bị bệnh dịch, khỏi nạn lửa nước. Không có giặc hại, người thấy cung kính, quỷ thần hộ trì…”
Ý Nghĩa Của Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương bồ tát, tay trái cầm như ý châu, tay phải cầm tích trượng có 6 vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi có nghĩa muốn cứu độ hết mọi chúng sinh trên thế gian. Sứ mệnh của Ngài – Địa Tạng Vương bồ tát là để cứu độ mọi chúng sinh từ trên trời cho tới địa ngục.
Bên cạnh ý nghĩa vĩ đại cứu độ hết thảy chúng sanh trong lục giới, tượng Địa Tạng Bồ Tát còn mang ý nghĩa sâu xa. Đó chính là biểu tượng cho tâm địa của mỗi chúng ta. Địa có nghĩa là mặt đất, Tạng có nghĩa là dung chứa. Mặt đất có thể dung chứa tất cả mọi vật, thì tâm con người cũng vậy, dung chứa cả cái thiện và cái ác. Bồ Tát Địa Tạng nguyện cứu độ mọi chúng sinh trong địa ngục mới thành Phật, cũng như người tu hành nguyện chuyển hóa tất cả những hạt giống xấu ác trong tâm thành điều thiện, như vậy cũng đã là thành Phật.
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá
Cách Thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát Tại Nhà
Ông bà ta có câu “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Do đó, khi thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát tại nhà quý Phật tử cũng nên lưu ý một số điều.
Về tượng Phật, quý vị Phật tử nên chọn những tôn tượng Địa Tạng Bồ Tát có diện mạo cân đối, gương mặt toát lên được sự từ bi hỷ xả. Không chọn những tôn tượng có khuôn mặt cau có, hay những bức tượng sứt mẻ, không hoàn thiện. Vì đây là điều thể hiện sự bất kính đối với Đức Phật.
Trước khi thờ Phật, quý vị cần phải lựa được ngày tốt. Bởi thỉnh Phật về thờ tại gia không phải chuyện đùa, việc này cần phải nghiêm túc, chấp hành đúng những lễ nghi cần thiết trước khi thờ Phật tại gia. Khi đặt Phật Địa Tạng lên bàn thờ thì không được để ngang hàng với bàn thờ gia tiên. Bàn thờ Phật phải được đặt cao hơn bàn thờ gia tiên.
Cúng Dường Địa Tạng Bồ Tát
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá cưỡi thú
Kinh Địa Tạng chính là bộ Kinh đầu tiên Ngài Tuyên Hóa đọc được, Kinh Địa Tạng cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy giảng và đó cũng là bộ Kinh đầu tiên Ngài ấy quỳ hành trì tụng. Ngài Tuyên Hóa từng nói: “những ai muốn thay đổi cuộc đời số mệnh của mình, những ai muốn được theo tôi qua bên Mỹ học tập ở Vạn Phật Thánh Thành dưới sự dẫn dắt của tôi, mà hiện tại chưa đủ điều kiện, chưa đủ khả năng. Học Kinh Địa Tạng, Ngài Đại Tạng sẽ gia hộ, các vị sẽ được đi theo tôi”. Quý Phật tử nào muốn thay đổi cuộc đời của mình thì hãy học thuộc Kinh Địa Tạng. Đây chính là Pháp cúng dường Địa Tạng Bồ Tát.
Những ai khuyên bảo mọi người theo Ngài Địa Tạng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng. Pháp cúng dường lớn hơn những vật cúng dường gấp trăm ngàn lần. Học 1 phẩm Kinh Địa Tạng cũng là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng, chép Kinh Địa Tạng cũng chính là Pháp cúng dường Ngài Địa Tạng.
Khi con người mất đi, đọa xuống địa ngục, bị Diêm Vương kết tội. Nếu người đó từng học thuộc Kinh Địa Tạng, hay 1 phẩm hoặc 1 bài kệ trong đó thì sẽ được thả và không bị trách tội.
Kinh Địa Tạng phẩm thứ 12 có ghi lại rằng những người chí tâm quy y Ngài Địa Tạng từ kiếp này trở về sau vĩnh viễn không còn bị đọa vào 3 ác đạo, Ngài Địa Tạng sẽ bảo hộ cho.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Bằng Đá – DT69 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Mỗi người khi sinh ra đều được Phật đi theo phù hộ, tương ứng với từng năm sinh mà đức Phật độ mệnh cho mỗi người lại khác nhau. Vậy bạn đã biết Phật bản mệnh của từng con giáp là ai chưa?
Trong sách “Pháp uyển châu lâm” của nhà phật có viết: “Bên ngoài cõi Diêm Phù Đề, bên trong bốn biển có 12 loài thú được Bồ Tát giáo hóa. Khi cõi người mới sinh ra, Bồ Tát phân nhiệm vụ những loài thú này bảo vệ, nhận được lợi ích nên 12 con giáp cũng dựa vào đó để đặt ra…”. Mỗi con giáp sẽ thuộc quản lý và nhận được sự độ mệnh của một vị Phật khác nhau. Những vị phật này sẽ bảo hộ và mang đến may mắn, sức khỏe, thành công cho những con giáp này.
Phật độ mệnh không phân biệt giàu nghèo, giới tính. Vì thế nếu muốn cầu bình an, may mắn, thành công thì nên đeo vòng hoặc dây có hình vị phật độ mệnh cho con giáp của mình và làm việc tốt kết hợp cùng hướng tới vị phật bản mệnh để cầu phúc.
Phật bản mệnh được phân định theo tuổi (con giáp) như sau
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Tuổi Dậu: Bất Động Tôn Bồ Tát
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Tùy theo năm sinh mà ta phân định con giáp nào được Phật nào độ mệnh. Phật bản mệnh không thay đổi theo năm. Theo quan niệm dân gian, Phật bản mệnh sẽ bảo hộ cho bạn được bình an, cuộc sống thuận buồm xuôi gió.
Bạn nên biết Phật bản mệnh của mình là ai, điều đó sẽ giúp ích rất nhiều cho cuộc sống sau này của bạn. Đơn giản như khi đi chùa cầu an lễ Phật, ta biết hướng về ai kêu cầu, ước nguyện. Phật không phân sang hèn, không phân già trẻ, chỉ cần bạn thành tâm cầu khấn thì mỗi đức Phật đều có công đức vô lượng, có thể bảo hộ cho ta vượt mọi khó khăn. Bày tượng Phật bản mệnh hoặc đeo vòng có mặt hình tượng Phật bản mệnh, bạn sẽ có được bình an, may mắn và hạnh phúc như ý.
Tuổi Tý: Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Người sinh năm Tý có Phật độ mệnh là Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, biểu trưng cho đại từ đại bi. Ngài sẽ giúp bạn vượt qua được mọi khó khăn trong cuộc sống, có đủ ý chí và niềm tin để chiến thắng mọi bệnh tật. Khi vận may của bạn tìm đến, Ngài sẽ góp sức để vận thế của bạn thêm huy hoàng, xán lạn. Ngược lại, nếu bạn đang gặp vận rủi, Ngài sẽ giúp bạn hóa giải khó khăn, vượt qua hoạn nạn một cách để cuộc sống bình an, hạnh phúc và may mắn.
Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay là một trong tứ đại Bồ Tát. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay và Đại Thế Chí Bồ Tát là người phò trợ truyền bá Thánh pháp cho Phật A di đà. Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cùng với Phật A di đà và Đại Thế Chí Bồ Tát hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
Điển tích Phật giáo có ghi chép lại, nghìn tay của Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dùng để cứu hộ chúng sinh, còn nghìn mắt để dõi khắp nhân gian. Sau thời nhà Đường ở Trung Quốc, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay dần dần được rất nhiều chùa chiền thờ phụng. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thường lấy 42 cánh tay tượng trưng cho nghìn tay, trên mỗi cánh tay đều có một mắt.
Chữ “nghìn” trong Quan Âm nghìn mắt nghìn tay thể hiện sự vô lượng và viên mãn, nghìn tay từ bi dang rộng cứu giúp chúng sinh, nghìn mắt trí tuệ soi thấu khắp cõi trần gian. Theo “Kinh Đà la ni”: Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay phổ độ chúng sinh, thỏa mãn mọi ước nguyện, giúp dân chúng sống đời an lạc.
Ngày Quan Âm nghìn mắt nghìn tay đản sinh: ngày 19 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Sửu, tuổi Dần: Hư Không Tạng Bồ Tát
Người sinh năm Sửu, năm Dần có Phật độ mệnh là Hư Không Tạng Bồ Tát, đại diện cho sự thành thực và sung túc. Bất hư bất không là Thần Tài của Phật giới, khi bạn mang theo mình mặt ngọc Hư Không Tạng Bồ Tát, ngài sẽ giúp bạn mở lối thoát nguy nan, tránh hao tài phá của, vận thế tài lộc tăng tiến không ngừng, lại càng thêm sinh tài tụ lộc, được Bát Phương quý nhân tương trợ, đánh đuổi tiểu nhân, tiền tài vượng phát.
Tên phiên âm theo tiếng Phạn của Hư Không Tạng Bồ Tát là Akasagarbha, mật danh là Khố Tạng Kim Cương. Hư Không Tạng Bồ Tát là Đệ nhất phù thần của Tam Thế Chư Phật, công đức khắp hư không, thông tuệ mọi điều trên thế gian này, có tâm nhẫn nhịn tựa kim cương, ý chí kiên cường như gió lớn, đẩy lùi mọi cám dỗ trên đời. Đọc thông “Hư Không Tạng chú” có thể giữ tâm kiên định, tăng cường trí nhớ, thúc đẩy chí tiến thủ.
Hư Không Tạng Bồ Tát có sức mạnh ban tạng niềm vui và tài lộc. “Tạng” thể hiện phúc đức trí tuệ vô biên, “Hư Không” thể hiện sự rộng lớn khôn cùng, “Đại phương đẳng đại tập kinh” có chỉ rõ: Hư Không Tạng tựa như phú ông, chúng sinh đói khổ chỉ cần đến trước mặt Bồ Tát kêu cầu là được cứu tế. Vì thế mà Hư Không Tạng Bồ Tát còn được biết đến là vị Bồ Tát coi cứu độ chúng sinh là niềm vui.
Tuổi Mão: Văn Thù Bồ Tát
Người sinh năm Mão có Phật độ mệnh là Văn Thù Bồ Tát, biểu trưng của đại trí tuệ, có thể thắp lên ánh sáng tinh thần, khai sáng tư duy, tăng cao ngộ tính. Ngài giúp cho đường học hành thuận lợi, hoạn lộ thênh thang, phúc lộc đầy nhà. Người tuổi Mão sẽ càng thêm sáng tạo, ý chí kiên cường, đủ sức cạnh tranh và chiến thắng đối phương, sự nghiệp thăng tiến không ngừng.
Danh xưng theo âm tiếng Phạn của Văn Thù Bồ Tát là Manjusri, hay còn gọi là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. “Đại Nhật kinh” ghi rằng: Diệu Cát Tường, Văn Thù hay Mạn Thù đều mang nghĩa chỉ điều kì diệu, còn Sư Lợi hay Thất Lợi có nghĩa là phúc đức hay cát tường, gọi đơn giản là Văn Thù.
Văn Thù Bồ Tát là thị giả theo hầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đại đệ tử của Đức Phật. Văn Thù Bồ Tát, Phật Thích Ca Mâu Ni và Phổ Hiền Bồ Tát được dân gian tôn là “Hoa Nghiêm Tam Thánh”. Văn Thù Bồ Tát là bậc đại trí dùng trí tuệ dẫn đường chúng sinh, tài năng đức độ đứng đầu trong các vị Bồ Tát, là biểu trưng cho trí tuệ.
Văn Thù Bồ Tát còn được gọi là Pháp Vương Tử, đại diện cho trí tuệ, mặc đồ màu tím vàng như Đồng tử, đỉnh đầu có 5 xoáy, tóc búi cao. Tay phải cầm Kim cương bảo kiếm (tượng trưng cho sự sắc bén của trí tuệ), có thể chém ma trừ tà, chặt đứt mọi nỗi muộn phiền. Tay phải cầm búp sen xanh, trong búp hoa có cuốn kinh Kim cương, tượng trưng cho trí tuệ vô thượng, cưỡi trên lưng sư tử (biểu trưng cho sức mạnh của trí tuệ).
Ngày Văn Thù Bồ Tát đản sinh: ngày 4 tháng 4 âm lịch.
Tuổi Thìn, tuổi Tị: Phổ Hiền Bồ Tát
Người sinh năm Thìn, năm Tị có Phật độ mệnh là Phổ Hiền Bồ Tát, đại diện cho lý trí, đức độ và đại hành nguyện. Ngài sẽ đi theo phù hộ cho người tuổi Thìn, tuổi Tị hoàn thành ước nguyện, trừ bỏ tiểu nhân, tăng thêm khí thế, quyền uy của người lãnh đạo, giúp bạn cầu được ước thấy, hạnh phúc mỹ mãn.
Tên tiếng Phạn của Phổ Hiền Bồ Tát là Samantabhadra. Phổ Hiền Bồ Tát đi theo phù trợ, truyền bá Phật giáo cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng với Văn Thù Bồ Tát hợp thành “Hoa Nghiêm Tam Thánh”.
Phổ Hiền Bồ Tát có lời nguyện rằng: “Phổ hiền hành nguyện uy thần lực, phổ hiện nhất thiết như lai tiền”. Phổ Hiền Bồ Tát truyền bá Phật pháp thập phương công đức vô lượng, còn tu hành đạo hạnh vô thượng, có thể độ vô biên hữu tình, dùng trí tuệ để thỏa nguyện chúng sinh, giúp muôn dân biết đến đạo Phật.
Phổ Hiền Bồ Tát hành thiện vô số, phân thân trong tích tắc, tùy duyên giáo hóa chúng sinh. Dân gian còn gọi Ngài là Thập Đại Nguyện Vương, “Pháp Hoa kinh” ghi rằng: chỉ cần thành tâm tín phật là Phổ Hiền Bồ Tát cùng chư đại Bồ Tát sẽ cùng hiện thân bảo hộ, giúp cho thân tâm đều được an yên, xóa bỏ mọi ưu phiền, chẳng lo yêu ma quấy phá.
“Phổ Hiền diên mệnh kinh kí” nói rằng: Phổ Hiền Bồ Tát có sức mạnh vô cùng, có khả năng kéo dài tuổi thọ. Ngài là đại diện cho lễ đức và hành thiện, tượng trưng cho chân lý. Ngài dùng trí tuệ dẫn lối chúng sinh, dùng hành động để làm gương cho muôn dân, hoàn thành những ước nguyện của người cầu Phật, còn được dân chúng tôn làm “Đại hành Phổ Hiền Bồ Tát”.
Ngày Phổ Hiền Bồ Tát đản sinh: ngày 21 tháng 2 âm lịch.
Tuổi Ngọ: Đại Thế Chí Bồ Tát
Người sinh năm Ngọ có Phật độ mệnh là Đại Thế Chí Bồ Tát, ban cho người tuổi Ngọ ánh sáng trí tuệ, giúp đường đời được thuận buồm xuôi gió, sự nghiệp hanh thông. Ánh sáng vĩnh hằng Phật pháp sẽ hóa sát trừ hung, ban điều như ý cát tường, chỉ lối dẫn đường cho người tuổi Ngọ phát huy năng lực để đạt đến lý tưởng cao nhất.
Đại Thế Chí Bồ Tát là vị hành giả bên cạnh Phật A di đà, còn gọi là Đại Tinh Tiến Bồ Tát, gọi tắt là Thế Chí. Đại Thế Chí Bồ Tát cùng Phật A di đà và Quan Thế Âm Bồ Tát (Quan Âm nghìn mắt nghìn tay) hợp thành “Tây phương Tam Thánh”.
“Bi Hoa kinh” kể rằng trước đây có một vị chuyển luân Thánh Vương, đại thái tử là Quan Thế Âm Bồ Tát, nhị thái tử là Đại Thế Chí Bồ Tát, tam thái tử là Văn Thù Bồ Tát, tứ thái tử là Phổ Hiền Bồ Tát. Chuyển luân Thánh Vương về sau tu hành thành Phật, chính là Phật A di đà của giới Tây phương cực lạc, Quan Thế Âm Bồ Tát cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đi theo vua cha phò trợ tả hữu hai bên.
“Quan vô lượng thọ kinh” ghi rằng: Đại Thế Chí Bồ Tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp nhân gian, giúp chúng sinh thoát khỏi nạn đao binh cũng như thiên tai bão lụt, công đức vô lượng, uy thế vô biên. Đại Thế Chí Bồ Tát là ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh.
Ngày Đại Thế Chí Bồ Tát đản sinh: ngày 13 tháng 7 âm lịch.
Tuổi Mùi, tuổi Thân: Đại Nhật Như Lai
Người sinh năm Mùi, năm Thân có Phật độ mệnh là Đại Nhật Như Lai, Ngài là biểu tượng của ánh sáng và trí tuệ, giúp người tuổi Mùi, tuổi Thân luôn giữ được tinh thần minh mẫn, trừ yêu tránh tà, cảm nhận được tinh hoa vạn vật, hấp thu linh khí đất trời, vững vàng tiến lên phía trước, cuộc đời sáng lạn, hạnh phúc.
Đại Nhật Như Lai là tôn xưng chí cao vô thượng trong Phật giáo Mật tông, là Đức Phật cấp cao nhất trong Mật tông. Theo đó, tất cả các đức Phật và Bồ Tát đều do Đại Nhật Như Lai mà ra, Đại Nhật Như Lai đứng đầu chỉ huy tất cả, là đức Phật khởi sinh trong giới Phật giáo Mật tông.
“Đại nhật” có nghĩa là thắng cả mặt trời, Đại Nhật Như Lai có thể phá bỏ mọi tà pháp, xóa mọi trở ngại trong chốn nhân gian, công đức viên mãn, đem ánh sáng trí tuệ chiếu sáng muôn nơi, không còn đêm đen che giấu, khởi nguồn sinh sôi Phật Tâm. Ánh sáng trí tuệ của Đại Nhật Như Lai khơi gợi tâm thiện trong mỗi con người.
Tuổi Dậu: Bất Động Minh Vương
Người sinh năm Dậu có Phật độ mệnh là Bất Động Minh Vương – Bất Động Tôn Bồ Tát, tượng trưng cho lý trí, trí tuệ. Ngài sẽ thầm lặng đi theo bảo vệ, giúp cho người tuổi Dậu trên đường đời phân biệt phải trái đúng sai, nắm bắt cơ hội đến với mình, sử dụng trí tuệ để ứng phó với khó khăn, vượt qua nghịch cảnh, có được sự nghiệp thành công, gia đình hạnh phúc. Đeo tượng Phật bản mệnh Bất Động Tôn Bồ Tát có những điều cấm kị, bạn đừng bỏ qua nhé.
Bất Động Tôn Bồ Tát còn có tên tiếng Phạn là Acalanatha, nghĩa là Bất Động Tôn hay Vô Động Tôn. Giáo giới tôn ngài làm Bất Động Minh Vương, là sứ giả bất động. “Bất động” ở đây chỉ tâm từ bi bền vững không chút dao động lung lay, còn “Minh” chỉ ánh sáng trí tuệ.
Chỉ cần nhìn thấy Bất Động Tôn Bồ Tát là tự phát thiện tâm, nghe thấy tên là đoạn mọi ác tâm, nghe thấy pháp danh như được thêm trí tuệ, hiểu rõ tâm tư thì có cơ may thành Phật.
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: Phật A di đà
Người sinh năm Tuất, năm Hợi có Phật độ mệnh là Phật A di đà, tượng trưng cho ánh sáng, phúc thọ, bảo hộ cho người tuổi Tuất, tuổi Hợi trí tuệ hơn người, xóa bỏ phiền não, mệt mỏi, kiên cường gây dựng cơ đồ, hưởng đời an lạc.
Phật A di đà còn có tên tiếng Phạn là Amitayusa (Vô Lượng Thọ), Amitaba (Vô Lượng Quang). Ngài còn được gọi là Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Quang, Phật Quan Tự Tại Vương, Cam Lộ Vương. Phật A di đà là giáo chủ trong giới Tây phương cực lạc, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tài hợp thành “Tây Phương Tam Thánh”.
Theo ghi chép cổ, từ thời xa xưa, Ngài vốn được giáo hóa bởi Phật Thế Tự Tại Vương, nguyện gây dựng Phật Quốc tận thiện tận mĩ (nơi cực lạc), dùng cách đi độ hóa chúng sinh, phát 48 lời thề nguyện, nhờ đó tu hành thành Phật A di đà. Những ai có cơ may gặp được Ngài thì có thể thoát khỏi mọi nỗi thống khổ trên đời.
Ngày Phật A di đà đản sinh: ngày 17 tháng 11 âm lịch. (Đây kì thực là ngày sinh của Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, tương truyền là đấng tái sinh của Phật A di đà.)
Các mẫu Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá tại cơ sở Tín Khôi:
Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp bằng đá
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết DCG13 – Tượng Quan Âm Hoá Thân 12 Con Giáp đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Giới thiệu sản phẩm Tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên
Tên sản phẩm: Tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên
Chất liệu: đá tự nhiên nguyên khối
Tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo mà còn mang ý nghĩa phong thủy sâu sắc. Chúng được xem như những biểu tượng may mắn, mang lại nhiều tài lộc và bình an cho gia chủ.
Ý nghĩa tượng 12 con giáp bằng đá
Trong hành trình tạo ra câu chuyện truyền thuyết này, con người cũng đã cho biết một số ý nghĩa đặc biệt về phong thủy. Những ý nghĩa này đã thúc đẩy sự sáng tạo trong việc mua sắm và trang trí bằng những bức tượng đá 12 con giáp. Những tượng này thường được trưng bày trong khuôn viên nhà cửa, cũng như tại các đền chùa, miếu hoặc khu vui chơi giải trí. Ngoài ra, chúng cũng trở thành món quà ý nghĩa trong các dịp lễ tết, giúp mang đến may mắn, sức khỏe và thành công trong công việc, tạo ra cuộc sống an lành, thịnh vượng cho cả gia đình và cá nhân.
Mỗi bức tượng mang theo mình một ý nghĩa riêng biệt của 12 con giáp, và chúng ta có thể lựa chọn tùy theo năm sinh, ngũ hành mệnh, hay những mong muốn cá nhân để tìm ra một bức tượng 12 con giáp thích hợp cho bản thân. Việc lựa chọn một tượng mang đúng ý nghĩa phong thủy, hợp với linh vật sẽ đem đến những điều tốt lành trong cuộc sống của gia chủ.
Tượng con Chuột (Tý)
Tượng 12 con giáp bằng đá
Chuột mang mệnh hành Thủy và trong tự nhiên nước mang đến sự sống cho mọi vật. Trên thực tế, Chuột không chỉ là một loài thông minh mà còn có khả năng thích nghi tốt trong môi trường. Vì vậy, tượng Chuột đá mang theo ý nghĩa của sự bắt đầu tươi sáng và sự phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, nó phù hợp với những người sinh vào năm Thân và Thìn, nhưng cần tránh cho người tuổi Ngọ. Để tận dụng tối đa hiệu quả, nơi lý tưởng để đặt tượng Chuột là hướng Bắc.
Tượng con Trâu (Sửu)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Trâu, một loài vật hiền lành, chăm chỉ và sở hữu sức khỏe mạnh mẽ. Trong lĩnh vực phong thủy, Trâu thể hiện sự an lành, ấm cúng của gia đình. Các không gian trang trí với tượng Trâu đá như các doanh nghiệp hay nhà cửa, thường nhận được nhiều vận khí tài lộc, thúc đẩy sự phát triển và thịnh vượng trong kinh doanh. Tượng con Trâu đá đặc biệt phù hợp với những người thuộc tuổi Tý và Dậu, tuy nên tránh cho người tuổi Thân. Hướng thích hợp để đặt tượng Trâu thường là hướng Đông Bắc.
Tượng con Hồ (Dần)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Hổ, một con vật được biết đến với danh xưng “chúa tể sơn lâm” của vương quốc thú, là biểu tượng của sự quyền uy và tôn quý. Trong tượng 12 con giáp, Hổ đại diện cho sự dũng cảm, sức mạnh bất khả chiến bại nên tượng hổ thường được chọn lựa để đặt ở nơi thờ cúng linh thiêng. Tượng hổ đá mang lại cho gia chủ sự địa vị, quyền lực xã hội và thành công trong sự nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho thăng tiến kinh doanh. Tượng con Hổ thường phù hợp với những người thuộc tuổi Ngọ và Tuất, nhưng cần hạn chế cho người tuổi Thân. Hướng phù hợp để đặt tượng Hổ đá thường là hướng Đông Bắc.
Tượng con Mèo (Mão)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Mèo có những đặc điểm như sự nhẹ nhàng, lòng kiên nhẫn, sự thông minh và khả năng linh hoạt, tượng trưng cho sự tham vọng, tài năng và thành công trong sự nghiệp. Trong lĩnh vực phong thủy, tượng Mèo đá mang ý nghĩa tốt lành, có khả năng giải quyết những tình huống tiêu cực, đem đến sự thịnh vượng và tài lộc cho gia chủ. Đặc biệt, những người đang định hướng vào kinh doanh, thương mại, và buôn bán sẽ hưởng lợi từ việc sở hữu tượng mèo đá, giúp tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và thịnh vượng ngày càng gia tăng. Người tuổi Mùi và Hợi thường hợp với tượng Mèo đá, trong khi người tuổi Dậu nên tránh xa. Hướng đặt tượng cũng cần được cân nhắc, thường là hướng Đông để đảm bảo hiệu quả của tượng trong việc thu hút lượng tài lộc và may mắn.
Tượng con Rồng (Thìn)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Trong 12 con giáp, Rồng luôn đứng đầu danh sách những biểu tượng thường được lựa chọn cho việc thờ cúng tại các đền chùa và những nơi linh thiêng. Rồng tượng trưng cho sự linh thiêng, uy nghiêm, sức mạnh. Rồng được hiểu là biểu tượng của sự phát triển, mang lại sự thuận lợi trong mùa màng, cuộc sống thịnh vượng và hạnh phúc. Tượng Rồng là một trong những biểu tượng được ưa chuộng nhất trong số 12 con giáp, vì trong tư tưởng của dân gian, nó mang theo nhiều may mắn và tài lộc. Ngoài ra, tượng Rồng còn bảo vệ gia chủ tránh những xui xẻo. Người tuổi Thân và Tý thường có sự hòa hợp với tượng Rồng, trong khi người tuổi Tuất nên tránh xa. Hướng đặt tượng nên là hướng Đông Nam.
Tượng con Rắn (Tỵ)
Rắn là biểu tượng của nước và lửa, trộn lẫn giữa linh hồn và tính đa nghi, sự quả quyết và quyết đoán. Chúng mang trong mình ý nghĩa sâu sắc không chỉ là một trong 12 con giáp mà còn có vai trò quan trọng trong tâm linh của người Việt. Sở hữu một tượng Rắn được coi là mang lại nhiều may mắn, giúp công việc tiến triển một cách trôi chảy và gặp ít khó khăn. Đặc biệt, tượng Rắn còn tượng trưng cho sự khéo léo và linh hoạt, khiến cho những người sở hữu tượng Rắn đá trở nên thông minh, có khả năng giải quyết mọi tình huống một cách thông thoáng và tinh tế.
Tượng Rắn đá thường phù hợp với những người tuổi Sửu và Dậu, nhưng không thích hợp cho người tuổi Hợi. Hướng đặt tượng cũng cần được cân nhắc, thường nên hướng về Đông Nam.
Tượng con Ngựa (Ngọ)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Ngựa đại diện cho sự trung thành, kiên nhẫn và khả năng bền bỉ, mang đến tài lộc, may mắn cho gia chủ. Đặc biệt, ngựa được xem là biểu tượng lý tưởng cho những người kinh doanh và làm ăn, khi sở hữu một tượng Ngựa đá, gia chủ sẽ nhận được sự hỗ trợ vượt trội, tiền tài liên tục chảy vào, công việc diễn ra một cách suôn sẻ và thuận lợi, thậm chí kết quả còn vượt xa ngoài dự kiến.
Tượng Ngựa đá thường phù hợp với những người tuổi Tuất và Dần, nhưng không hợp với người tuổi Tý. Hướng đặt tượng thường là hướng Nam.
Tượng con Dê (Mùi)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Mặc dù Dê không có tốc độ như Mèo, sức mạnh như Hổ, hay sự chăm chỉ như Trâu, nhưng Dê lại mang sự sáng tạo, trí tuệ và tinh thần không thể bị chinh phục. Tượng Dê đá có khả năng làm mọi thứ trở nên dễ dàng với gia chủ, duy trì sự minh mẫn và sáng tạo, và giải quyết công việc một cách thông suốt. Tượng Dê đá còn mang đến nhiều tài lộc, giúp đạt được thành công trong cuộc sống. Đặc biệt, nó thường phù hợp với người tuổi Hợi và Mão, nhưng không thích hợp cho người tuổi Sửu. Hướng đặt tượng tốt nhất là hướng Tây Nam.
Tượng con Khỉ (Thân)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Trong phong thủy, Khỉ mang đến nhiều may mắn, biểu tượng của sức mạnh tiềm năng, lòng nhân ái và trí thông minh. Tượng Khỉ đá thường được đặt trong nhà với hy vọng rằng con đường sự nghiệp sẽ mở ra nhiều cơ hội và đạt được nhiều thành công, cùng với vị trí trong xã hội. Đồng thời, nó tạo ra một cuộc sống ấm cúng và hạnh phúc. Tượng Khỉ đá thường phù hợp với người tuổi Thìn và Tỵ, nhưng không hợp với người tuổi Dần. Hướng đặt tượng thích hợp trong nhà là hướng Tây Nam.
Tượng con Gà (Dậu)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Gà đại diện cho tính chính trực, thanh minh. Tượng Gà đá được coi là cách xua đuổi năng lượng tiêu cực, bảo vệ tài sản trong nhà, đồng thời mang lại cuộc sống ấm cúng, hạnh phúc và bình an. Tượng Gà đá thường phù hợp với người tuổi Sửu và Tý, nhưng không hợp với người tuổi Mão. Hướng đặt tượng tốt nhất là hướng Tây.
Tượng con Chó (Tuất)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Chó tượng trưng cho sự trung thành và được coi là người bạn trung thành của con người. Tượng Chó đá mang năng lượng dồi dào, giúp xua đuổi tà khí và bảo vệ tài sản trong nhà, cùng với sự giàu có. Tượng Chó đá thường phù hợp với người tuổi Dần và Ngọ, nhưng không hợp với người tuổi Thìn. Hướng đặt tượng tốt nhất là hướng Tây Bắc.
Tượng con Heo (Hợi)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Mặc dù thường bị coi là biểu tượng của sự lười biếng, nhưng trong phong thủy, Heo đại diện cho sự sinh sản và thịnh vượng. Tượng Heo đá có thể giúp làm cho cuộc sống và công việc trở nên suôn sẻ và thuận lợi. Nó phù hợp với người tuổi Mão và Mùi, nhưng không thích hợp cho người tuổi Tỵ. Hướng đặt tượng tốt nhất là hướng Tây Bắc.
Cam kết về chất lượng tượng Tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên
100% đá tự nhiên nguyên khối
100% được điêu khắc thủ công dưới bàn tay của những thợ lành nghề của xưởng Văn Vĩnh – Tửợng đá Non Nước
Chất lượng bền bỉ cùng thời gian
Ship hàng trên toàn Quốc
Giá thành hợp lý, cạnh tranh nhất thị trường
Vui lòng liên hệ với chúng tôi qua Hotline: 0707.433.662 để được tử vấn và hướng dẫn tận tình.
Công dụng của tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên
Tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo mà còn mang ý nghĩa phong thủy sâu sắc. Chúng được xem như những biểu tượng may mắn, mang lại nhiều tài lộc và bình an cho gia chủ.
Ý nghĩa phong thủy
Biểu tượng cho 12 năm tuổi: Mỗi con giáp tượng trưng cho một năm sinh, thể hiện tính cách và vận mệnh của người sinh năm đó.
Cân bằng âm dương: Đặt bộ tượng 12 con giáp trong nhà giúp cân bằng âm dương, tạo ra một không gian sống hài hòa.
Chiêu tài lộc: Tượng 12 con giáp được xem là vật phẩm phong thủy có khả năng thu hút tài lộc, may mắn và thành công.
Bảo vệ gia đình: Tượng 12 con giáp còn có tác dụng trấn trạch, bảo vệ gia đình khỏi những điều xui xẻo, mang lại bình an và hạnh phúc.
Công dụng
Trang trí không gian: Tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên với vẻ đẹp tự nhiên và đường nét tinh xảo, trở thành điểm nhấn độc đáo cho không gian sống, văn phòng làm việc.
Quà tặng ý nghĩa: Tặng tượng 12 con giáp cho người thân, bạn bè là món quà ý nghĩa, thể hiện sự quan tâm và chúc phúc.
Vật phẩm phong thủy: Được sử dụng để cầu bình an, may mắn, tài lộc và thành công.
Biểu tượng văn hóa: Tượng 12 con giáp là một phần không thể thiếu trong văn hóa Á Đông, thể hiện tín ngưỡng và quan niệm sống của người dân.
Cách chọn và đặt tượng 12 con giáp
Chất liệu đá: Nên chọn tượng làm bằng đá tự nhiên như đá cẩm thạch, đá hoa cương, đá onyx… vì chúng có độ bền cao và mang năng lượng tự nhiên.
Con giáp phù hợp: Nên chọn tượng con giáp tương ứng với tuổi của mình hoặc tuổi của người được tặng để tăng cường vận khí.
Vị trí đặt tượng:
Phòng khách: Đặt ở vị trí trung tâm hoặc góc cát để đón tài lộc.
Phòng làm việc: Đặt trên bàn làm việc để tăng cường sự tập trung và hiệu quả công việc.
Ban thờ: Đặt tượng ở ban thờ để thể hiện lòng thành kính.
Lưu ý khi sử dụng tượng 12 con giáp
Vệ sinh thường xuyên: Lau chùi tượng bằng khăn mềm và nước sạch để giữ cho tượng luôn sáng bóng.
Tránh va chạm: Đặt tượng ở nơi cố định, tránh va chạm làm hư hỏng.
Không đặt tượng ở những nơi tối tăm, ẩm thấp.
Tóm lại, tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên không chỉ là một vật trang trí mà còn mang ý nghĩa phong thủy sâu sắc. Việc sở hữu một bộ tượng 12 con giáp phù hợp sẽ giúp bạn thu hút nhiều may mắn và thành công trong cuộc sống.
Địa chỉ bán tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên tại Làng Đá Non Nước Đà Nẵng
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0773567852 – 0799 456 152
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết GG08 – Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá – Thân đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Là Ai?
Tượng thích ca mâu ni bằng đá tại cơ sở Tín Khôi
Đức Phật Thích Ca khi còn nhỏ, Thái tử Siddhartha Gautama (sau này là Đức Phật) sinh ra tại vườn Lumbini ở thủ đô Kapilavastu của một vương quốc nhỏ nằm dưới chân dãy Himalaya của Ấn Độ cổ đại.
Nhiều người không biết rằng Đức Phật Thích Ca đang nói đến chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài còn có những tên gọi thông thường khác mà người Việt Nam vẫn quen gọi: Đức Phật, Như Lai Phật Tổ, Như Lai Phật Tổ, Tất Đạt Đa Cồ Đàm,… Trong đó, Như Lai là danh hiệu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Đức Phật Thích Ca chính là Thái tử Tất Đạt Đa – người có xuất thân cao quý nhất trong triều đại. Sinh ra tại vương quốc Thích Ca (Shakya – Ca) ngày nay thuộc Ấn Độ. Ngài nhận ra chân lý của chính mình, thoát khỏi luật sinh tử. Đồng thời, Ngài truyền bá những triết lý đó cho con người trên trái đất để họ thoát khỏi đau khổ.
Những lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni luôn hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc, và dù thời gian có trôi đi nhưng những lời dạy về cuộc sống và giới luật được giảng giải vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.
>>>>Xem Thêm:Tượng Phật Thích Ca
Ý Nghĩa Của Việc Thờ Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch trắng nguyên khối
Thờ tượng phật là một nét đẹp trong văn hóa tín ngưỡng tâm linh của người Việt. Dù thờ bất cứ vị Phật nào thì cũng mang lại những ý nghĩa tốt đẹp cho gia chủ. Phật Thích Ca là người dám từ bỏ ngai vàng, phú quý, giàu sang để đi tìm chân lý của cuộc đời với bao khó khăn, đói khổ và đã giác ngộ, giải thoát bản thân khỏi thế tục, Phật Thích Ca chính là người khai sinh ra Phật giáo. Vì vậy, việc thờ Phật Thích ca thể hiện sự giác ngộ của gia chủ: thành tâm hướng thiện, muốn giải thoát mình khỏi các thói xấu tham sân si ở đời và muốn cầu cho gia đạo luôn được an lành, tâm thanh tịnh.
Giúp Con Người Thức Tỉnh Chân Lý Cuộc Sống
Phật giúp con người sớm thức tỉnh nhận ra chân lý của sự khổ đau, thoát khỏi bể khổ để đến với những điều tốt đẹp nhất. Nhờ đó con người được thức tỉnh, nhận ra những điều chân lý và tránh khỏi cái ác, buồn đau cuộc sống.
Thể Hiện Sự Trân Trọng Quá Khứ
Trong gia đình, các gia chủ thường đặt tượng Phật A Di Đà cạnh đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Phật Di Lặc để thể hiện cho quá khứ, hiện tại và tương lai. Có quá khứ mới có hiện tại và hiện tại sẽ cố gắng cho tương lai. Việc thờ tượng Phật thể hiện sự trân trọng quá khứ và công ơn của thần thánh đã phù hộ độ trì cho con người.
Cầu Mong Sự Bình An Và May Mắn
Phật là hiện thân của những điều tốt đẹp, việc thờ Phật mang thông điệp cầu mong sự phù hộ độ trì của Thần phật cho cuộc sống của con người được bình an và may mắn.
Bên cạnh đó, Phật còn giúp con người tránh được những điều xui, vận hạn trong cuộc sống. Tuy nhiên, nên thờ tượng phật nào trong nhà để mang lại những giá trị phong thủy tốt nhất thì gia chủ cũng cần lưu ý kĩ.
Vị Trí Lập Bàn Thờ Tượng Phật Thích Ca Trong Nhà.
Đối với những nhà rộng, có diện tích thì nên dành riêng một gian để thờ Phật riêng. Những ngôi nhà có thiết kế hiện đại còn xây riêng một tần thượng để thờ Phật Thích Ca. Trường hợp không có gian riêng cũng vẫn có thể thờ tượng Phật ở gian chính ở trên các kệ cao được thiết kế một cách trang trọng. Bàn thợ Phật phải luôn được giữ sạch sẽ, lau chùi thường xuyên.
Mặt tượng Phật nên quay về hướng Đông vì đây là hướng mặt trời mọc mà Đức Phật Thích Ca quay ra để thiền định giác ngộ. Hướng bàn thờ nên đặt theo hướng Tây Bắc vì đây là hướng tượng trưng cho trời: Tây thiên cực lạc. Tuyệt đối nên tránh đặt bàn thờ ở hướng Đông Bắc nhìn về Tây Nam và ngược lại vì đây là hai hướng ngũ qủy có rất nhiều xung khí.
Những Điều Nên Và Không Nên Làm Khi Lập Bàn Thờ Tượng Phật Thích Ca Trong Nhà.
Những Điều Nên Làm:
+ Đặt tượng Phật Thích Ca hướng ra cửa chính.
+ Tốt nhất nên thờ tượng Phật Thích Ca ở gian riêng, trên lầu cao nhất của ngôi nhà hay ở những vị trí tôn kính mà không quá ồn ào hay nhiều người qua lại.
+ Tượng trên bàn thờ nên đặt trên miếng giấy lót đỏ.
+ Bàn thờ và tượng nên lau chùi thường xuyên, khăn chậu phải đảm bảo còn mới. Có thể dùng nước sạch, rượu, nước hoa, nước bưởi để lau chùi.
+ Hàng ngày nên thắp hương sáng tối và phải đảm bảo hương còn mới, đồ cúng phải đảm bảo tươi ngon. Nên để đèn bàn thờ luôn luôn bật sáng để thu hút năng lượng dương.
+ Tượng bị cũ, mờ nên tô vẽ lại. Nếu tượng Phật bị hư hỏng quá mức thì dùng giấy vàng gói lại để ngày 1, 3, 5, 7, 9 đốt dưới nắng tiễn tượng Phật quy vị. Không nên bạ đâu bỏ đó mà mang tội.
Những Điều Không Nên Làm:
+ Không được dùng gỗ hay vật liệu đã sử dụng qua làm bàn thờ Phật vì như vậy là bất kính.
+ Trên bàn thờ không được để các dị vật khác.
+ Tượng Phật rất linh thiêng nên không được cất trong các hộp, tủ hay két sắt vì như vậy giống như bạn đang cố nhốt Phật vậy. Hành động này vừa không giúp phù hộ cho gia đình mà còn làm cho các thành viên dễ bị bệnh đau ốm thường xuyên.
+ Tuyệt đối không được để tượng Phật Thích Ca lung tung trong nhà, kị nhất là những nơi không sạch sẽ ẩm thấp.
+ Dù cho nên đặt bàn thờ ở những hướng tốt nhưng không vì thể mà đặt bàn thờ ở những vị trí ồn ào, nhiều người qua lại sẽ làm mất đi sự thanh tịnh nơi thờ cúng.
+ Không đặt tượng Phật Thích Ca ở những nơi riêng tư như phòng ăn, phòng ngủ hoặc hướng mặt về những nơi thiếu trang nghiêm như phòng tắm, bếp hay nhà vệ sinh, dưới xà nhà hay gầm cầu thang…
+ Không nên đặt giường ngủ phía sau bàn thờ Phật Thích Ca vì ngủ sẽ không an giấc và còn hay gặp mộng mị
Một số mẫu tượng Thích Ca mâu ni tại cơ sở điêu khắc Tín Khôi:
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch
Tượng Phật Thích Ca bằng đá cà rốt
Mua Tượng Chân Dung Bằng Đá Ở Đâu Chất Lượng, Uy Tín?
Tượng Thích Ca Mâu Ni Bằng Đá Ấn Độ Nhập Khẩu
Cơ sở khắc đá Tín Khôi chuyên thiết kế và thi công sản phẩm tượng đá, trong đó có tượng Thích Ca mâu ni từ đá tự nhiên, nguyên khối. Tượng Thích Ca mâu ni bằng đá được các nghệ nhân của chúng tôi chế tác rất đa dạng, phong phú về hình ảnh, mẫu mã, kích thước……đảm bảo đáp ứng mọi yêu cầu cũng như tiêu chí của khách hàng. Ngoài sản phẩm tượng Thích Ca mâu ni được nhiều khách hàng tin tưởng và lựa chọn, cơ sở đá Tín Khôi còn nổi trội với các dòng sản phẩm khác như : Tượng Phật bằng đá, tượng đá nghệ thuật, tượng linh vật bằng đá……
Kế thừa và phát huy truyền thống làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước Ngũ Hành Sơn, cơ sở đá mỹ nghệ Tín Khôi là một trong những cơ sở tiêu biểu, nổi bật bậc nhất làng nghề. Được sự công nhận và tin yêu của nhiều khách hàng khắp trên cả nước. Chúng tôi tự tin sẽ mang tới những bức tượng Thích Ca mâu ni tốt nhất, đẹp nhất cho khách hàng.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni – TC106 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Giới thiệu sản phẩm Tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên
Tên sản phẩm: Tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên
Chất liệu: đá tự nhiên nguyên khối
Tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo mà còn mang ý nghĩa phong thủy sâu sắc. Chúng được xem như những biểu tượng may mắn, mang lại nhiều tài lộc và bình an cho gia chủ.
Ý nghĩa tượng 12 con giáp bằng đá
Trong hành trình tạo ra câu chuyện truyền thuyết này, con người cũng đã cho biết một số ý nghĩa đặc biệt về phong thủy. Những ý nghĩa này đã thúc đẩy sự sáng tạo trong việc mua sắm và trang trí bằng những bức tượng đá 12 con giáp. Những tượng này thường được trưng bày trong khuôn viên nhà cửa, cũng như tại các đền chùa, miếu hoặc khu vui chơi giải trí. Ngoài ra, chúng cũng trở thành món quà ý nghĩa trong các dịp lễ tết, giúp mang đến may mắn, sức khỏe và thành công trong công việc, tạo ra cuộc sống an lành, thịnh vượng cho cả gia đình và cá nhân.
Mỗi bức tượng mang theo mình một ý nghĩa riêng biệt của 12 con giáp, và chúng ta có thể lựa chọn tùy theo năm sinh, ngũ hành mệnh, hay những mong muốn cá nhân để tìm ra một bức tượng 12 con giáp thích hợp cho bản thân. Việc lựa chọn một tượng mang đúng ý nghĩa phong thủy, hợp với linh vật sẽ đem đến những điều tốt lành trong cuộc sống của gia chủ.
Tượng con Chuột (Tý)
Tượng 12 con giáp bằng đá
Chuột mang mệnh hành Thủy và trong tự nhiên nước mang đến sự sống cho mọi vật. Trên thực tế, Chuột không chỉ là một loài thông minh mà còn có khả năng thích nghi tốt trong môi trường. Vì vậy, tượng Chuột đá mang theo ý nghĩa của sự bắt đầu tươi sáng và sự phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, nó phù hợp với những người sinh vào năm Thân và Thìn, nhưng cần tránh cho người tuổi Ngọ. Để tận dụng tối đa hiệu quả, nơi lý tưởng để đặt tượng Chuột là hướng Bắc.
Tượng con Trâu (Sửu)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Trâu, một loài vật hiền lành, chăm chỉ và sở hữu sức khỏe mạnh mẽ. Trong lĩnh vực phong thủy, Trâu thể hiện sự an lành, ấm cúng của gia đình. Các không gian trang trí với tượng Trâu đá như các doanh nghiệp hay nhà cửa, thường nhận được nhiều vận khí tài lộc, thúc đẩy sự phát triển và thịnh vượng trong kinh doanh. Tượng con Trâu đá đặc biệt phù hợp với những người thuộc tuổi Tý và Dậu, tuy nên tránh cho người tuổi Thân. Hướng thích hợp để đặt tượng Trâu thường là hướng Đông Bắc.
Tượng con Hồ (Dần)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Hổ, một con vật được biết đến với danh xưng “chúa tể sơn lâm” của vương quốc thú, là biểu tượng của sự quyền uy và tôn quý. Trong tượng 12 con giáp, Hổ đại diện cho sự dũng cảm, sức mạnh bất khả chiến bại nên tượng hổ thường được chọn lựa để đặt ở nơi thờ cúng linh thiêng. Tượng hổ đá mang lại cho gia chủ sự địa vị, quyền lực xã hội và thành công trong sự nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho thăng tiến kinh doanh. Tượng con Hổ thường phù hợp với những người thuộc tuổi Ngọ và Tuất, nhưng cần hạn chế cho người tuổi Thân. Hướng phù hợp để đặt tượng Hổ đá thường là hướng Đông Bắc.
Tượng con Mèo (Mão)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Mèo có những đặc điểm như sự nhẹ nhàng, lòng kiên nhẫn, sự thông minh và khả năng linh hoạt, tượng trưng cho sự tham vọng, tài năng và thành công trong sự nghiệp. Trong lĩnh vực phong thủy, tượng Mèo đá mang ý nghĩa tốt lành, có khả năng giải quyết những tình huống tiêu cực, đem đến sự thịnh vượng và tài lộc cho gia chủ. Đặc biệt, những người đang định hướng vào kinh doanh, thương mại, và buôn bán sẽ hưởng lợi từ việc sở hữu tượng mèo đá, giúp tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và thịnh vượng ngày càng gia tăng. Người tuổi Mùi và Hợi thường hợp với tượng Mèo đá, trong khi người tuổi Dậu nên tránh xa. Hướng đặt tượng cũng cần được cân nhắc, thường là hướng Đông để đảm bảo hiệu quả của tượng trong việc thu hút lượng tài lộc và may mắn.
Tượng con Rồng (Thìn)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Trong 12 con giáp, Rồng luôn đứng đầu danh sách những biểu tượng thường được lựa chọn cho việc thờ cúng tại các đền chùa và những nơi linh thiêng. Rồng tượng trưng cho sự linh thiêng, uy nghiêm, sức mạnh. Rồng được hiểu là biểu tượng của sự phát triển, mang lại sự thuận lợi trong mùa màng, cuộc sống thịnh vượng và hạnh phúc. Tượng Rồng là một trong những biểu tượng được ưa chuộng nhất trong số 12 con giáp, vì trong tư tưởng của dân gian, nó mang theo nhiều may mắn và tài lộc. Ngoài ra, tượng Rồng còn bảo vệ gia chủ tránh những xui xẻo. Người tuổi Thân và Tý thường có sự hòa hợp với tượng Rồng, trong khi người tuổi Tuất nên tránh xa. Hướng đặt tượng nên là hướng Đông Nam.
Tượng con Rắn (Tỵ)
Rắn là biểu tượng của nước và lửa, trộn lẫn giữa linh hồn và tính đa nghi, sự quả quyết và quyết đoán. Chúng mang trong mình ý nghĩa sâu sắc không chỉ là một trong 12 con giáp mà còn có vai trò quan trọng trong tâm linh của người Việt. Sở hữu một tượng Rắn được coi là mang lại nhiều may mắn, giúp công việc tiến triển một cách trôi chảy và gặp ít khó khăn. Đặc biệt, tượng Rắn còn tượng trưng cho sự khéo léo và linh hoạt, khiến cho những người sở hữu tượng Rắn đá trở nên thông minh, có khả năng giải quyết mọi tình huống một cách thông thoáng và tinh tế.
Tượng Rắn đá thường phù hợp với những người tuổi Sửu và Dậu, nhưng không thích hợp cho người tuổi Hợi. Hướng đặt tượng cũng cần được cân nhắc, thường nên hướng về Đông Nam.
Tượng con Ngựa (Ngọ)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Ngựa đại diện cho sự trung thành, kiên nhẫn và khả năng bền bỉ, mang đến tài lộc, may mắn cho gia chủ. Đặc biệt, ngựa được xem là biểu tượng lý tưởng cho những người kinh doanh và làm ăn, khi sở hữu một tượng Ngựa đá, gia chủ sẽ nhận được sự hỗ trợ vượt trội, tiền tài liên tục chảy vào, công việc diễn ra một cách suôn sẻ và thuận lợi, thậm chí kết quả còn vượt xa ngoài dự kiến.
Tượng Ngựa đá thường phù hợp với những người tuổi Tuất và Dần, nhưng không hợp với người tuổi Tý. Hướng đặt tượng thường là hướng Nam.
Tượng con Dê (Mùi)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Mặc dù Dê không có tốc độ như Mèo, sức mạnh như Hổ, hay sự chăm chỉ như Trâu, nhưng Dê lại mang sự sáng tạo, trí tuệ và tinh thần không thể bị chinh phục. Tượng Dê đá có khả năng làm mọi thứ trở nên dễ dàng với gia chủ, duy trì sự minh mẫn và sáng tạo, và giải quyết công việc một cách thông suốt. Tượng Dê đá còn mang đến nhiều tài lộc, giúp đạt được thành công trong cuộc sống. Đặc biệt, nó thường phù hợp với người tuổi Hợi và Mão, nhưng không thích hợp cho người tuổi Sửu. Hướng đặt tượng tốt nhất là hướng Tây Nam.
Tượng con Khỉ (Thân)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Trong phong thủy, Khỉ mang đến nhiều may mắn, biểu tượng của sức mạnh tiềm năng, lòng nhân ái và trí thông minh. Tượng Khỉ đá thường được đặt trong nhà với hy vọng rằng con đường sự nghiệp sẽ mở ra nhiều cơ hội và đạt được nhiều thành công, cùng với vị trí trong xã hội. Đồng thời, nó tạo ra một cuộc sống ấm cúng và hạnh phúc. Tượng Khỉ đá thường phù hợp với người tuổi Thìn và Tỵ, nhưng không hợp với người tuổi Dần. Hướng đặt tượng thích hợp trong nhà là hướng Tây Nam.
Tượng con Gà (Dậu)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Gà đại diện cho tính chính trực, thanh minh. Tượng Gà đá được coi là cách xua đuổi năng lượng tiêu cực, bảo vệ tài sản trong nhà, đồng thời mang lại cuộc sống ấm cúng, hạnh phúc và bình an. Tượng Gà đá thường phù hợp với người tuổi Sửu và Tý, nhưng không hợp với người tuổi Mão. Hướng đặt tượng tốt nhất là hướng Tây.
Tượng con Chó (Tuất)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Chó tượng trưng cho sự trung thành và được coi là người bạn trung thành của con người. Tượng Chó đá mang năng lượng dồi dào, giúp xua đuổi tà khí và bảo vệ tài sản trong nhà, cùng với sự giàu có. Tượng Chó đá thường phù hợp với người tuổi Dần và Ngọ, nhưng không hợp với người tuổi Thìn. Hướng đặt tượng tốt nhất là hướng Tây Bắc.
Tượng con Heo (Hợi)
Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá
Mặc dù thường bị coi là biểu tượng của sự lười biếng, nhưng trong phong thủy, Heo đại diện cho sự sinh sản và thịnh vượng. Tượng Heo đá có thể giúp làm cho cuộc sống và công việc trở nên suôn sẻ và thuận lợi. Nó phù hợp với người tuổi Mão và Mùi, nhưng không thích hợp cho người tuổi Tỵ. Hướng đặt tượng tốt nhất là hướng Tây Bắc.
Cam kết về chất lượng tượng Tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên
100% đá tự nhiên nguyên khối
100% được điêu khắc thủ công dưới bàn tay của những thợ lành nghề của xưởng Văn Vĩnh – Tửợng đá Non Nước
Chất lượng bền bỉ cùng thời gian
Ship hàng trên toàn Quốc
Giá thành hợp lý, cạnh tranh nhất thị trường
Vui lòng liên hệ với chúng tôi qua Hotline: 0707.433.662 để được tử vấn và hướng dẫn tận tình.
Công dụng của tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên
Tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo mà còn mang ý nghĩa phong thủy sâu sắc. Chúng được xem như những biểu tượng may mắn, mang lại nhiều tài lộc và bình an cho gia chủ.
Ý nghĩa phong thủy
Biểu tượng cho 12 năm tuổi: Mỗi con giáp tượng trưng cho một năm sinh, thể hiện tính cách và vận mệnh của người sinh năm đó.
Cân bằng âm dương: Đặt bộ tượng 12 con giáp trong nhà giúp cân bằng âm dương, tạo ra một không gian sống hài hòa.
Chiêu tài lộc: Tượng 12 con giáp được xem là vật phẩm phong thủy có khả năng thu hút tài lộc, may mắn và thành công.
Bảo vệ gia đình: Tượng 12 con giáp còn có tác dụng trấn trạch, bảo vệ gia đình khỏi những điều xui xẻo, mang lại bình an và hạnh phúc.
Công dụng
Trang trí không gian: Tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên với vẻ đẹp tự nhiên và đường nét tinh xảo, trở thành điểm nhấn độc đáo cho không gian sống, văn phòng làm việc.
Quà tặng ý nghĩa: Tặng tượng 12 con giáp cho người thân, bạn bè là món quà ý nghĩa, thể hiện sự quan tâm và chúc phúc.
Vật phẩm phong thủy: Được sử dụng để cầu bình an, may mắn, tài lộc và thành công.
Biểu tượng văn hóa: Tượng 12 con giáp là một phần không thể thiếu trong văn hóa Á Đông, thể hiện tín ngưỡng và quan niệm sống của người dân.
Cách chọn và đặt tượng 12 con giáp
Chất liệu đá: Nên chọn tượng làm bằng đá tự nhiên như đá cẩm thạch, đá hoa cương, đá onyx… vì chúng có độ bền cao và mang năng lượng tự nhiên.
Con giáp phù hợp: Nên chọn tượng con giáp tương ứng với tuổi của mình hoặc tuổi của người được tặng để tăng cường vận khí.
Vị trí đặt tượng:
Phòng khách: Đặt ở vị trí trung tâm hoặc góc cát để đón tài lộc.
Phòng làm việc: Đặt trên bàn làm việc để tăng cường sự tập trung và hiệu quả công việc.
Ban thờ: Đặt tượng ở ban thờ để thể hiện lòng thành kính.
Lưu ý khi sử dụng tượng 12 con giáp
Vệ sinh thường xuyên: Lau chùi tượng bằng khăn mềm và nước sạch để giữ cho tượng luôn sáng bóng.
Tránh va chạm: Đặt tượng ở nơi cố định, tránh va chạm làm hư hỏng.
Không đặt tượng ở những nơi tối tăm, ẩm thấp.
Tóm lại, tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên không chỉ là một vật trang trí mà còn mang ý nghĩa phong thủy sâu sắc. Việc sở hữu một bộ tượng 12 con giáp phù hợp sẽ giúp bạn thu hút nhiều may mắn và thành công trong cuộc sống.
Địa chỉ bán tượng 12 con giáp bằng đá tự nhiên tại Làng Đá Non Nước Đà Nẵng
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0773567852 – 0799 456 152
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết GG03 – Tượng 12 Con Giáp Bằng Đá – Dần đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
ĐÈN THỜ ĐÁ
Đèn đá và đèn thờ đá là một trong những món đồ không thể thiếu trong khuôn viên đình, chùa, nhà thờ họ hay các khu lăng mộ. Mẫu đèn này không chỉ để thắp sáng trước sân vườn mà còn mang nhiều ý nghĩa tâm linh, phong thủy bên trong, đặc biệt là những loại đèn thờ đá ở trong các khu lăng mộ, đình, chùa,… Cùng Đá Mỹ Tín Khôi tìm hiểu để có thêm những thông tin bổ ích về đèn thờ đá, đèn đá để lựa chọn cho mình những mẫu đèn đá đẹp cho khuôn viên sân vườn, và không gian thờ cúng linh thiêng nhé.
Cặp chân đèn bằng đá
Đèn đá thờ cúng, đèn đá sân vườn là gì?
Đèn đá là đồ vật phổ biến dùng để thắp sáng trong khuôn viên chùa, đình, miếu. Ngoài ra, nó còn được sử dụng tại sân vườn, trong khuôn viên nhà, nhà hàng, khách sạn, nhà thờ họ,… Đèn giúp tạo nên không gian ấm cúng, sang trọng và mang tính thẩm mỹ cao. Đèn đá được chia làm 2 loại chính là đèn thờ cúng và đèn sân vườn tùy theo mục đích sử dụng.
Ý nghĩa của đèn đá, đèn thờ đá trong đời sống tâm linh
Theo quan niệm dân gian, người Việt luôn có niềm tin rằng ngọn lửa đỏ là sự kết nối giữa thế giới con người và thế giới tâm linh, giữa cõi âm và dương, giữa những người sống và người đã khuất. Điều này thể hiện rõ ràng hơn qua những nghi thức dâng hương cầu nguyện trong những dịp lễ quan trọng. Khi ngọn lửa đèn được thắp lên, người Việt sẽ khấn vái, cầu mong thần linh, gia tiên phù hộ, thành tâm kính mời ông bà về ăn cỗ với niềm tin rằng làn hương khói sẽ theo về cõi thiêng liêng.
Cặp chân đèn bằng đá
Một ý nghĩa tâm linh khác của đèn thờ đá là sự ấm áp, xua tan những không khí lạnh lẽo, u ám nơi thờ cúng thần linh, gia tiên ông bà. Ngoài ra, trong thuyết ngũ hành, những lúc không thắp hương thờ cúng sẽ mất đi sự cân bằng yếu tố hành hỏa, do đó đèn đá sẽ giúp nén hương, ngọn nến được thắp sáng liên tục.
Nói về phong thủy, trên bàn thờ cần hiện diện đủ 5 yếu tố cơ bản gồm Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ mới đạt được sự cân bằng và kích hoạt phúc lộc. Hỏa thường trấn giữ và hóa giải những năng lượng xấu, vận hạn không tốt. Từ đó, thu hút và giữ lại những khí tốt cho gia chủ trong gia đình.
Cây đèn đá thường được lắp ở những địa điểm nào?
Đèn đá tại đình chùa
Đèn thờ đá được lắp tại khuôn viên đình chùa thường có kích thước khoảng 170cm – 190cm là phù hợp và đẹp nhất. Đèn tại đình chùa thường đặt tại nơi chính diện phía trước chùa nhằm thể hiện sự trang nghiêm, linh thiêng và cổ kính. Ngoài ra, do đặt ngoài trời nên vật liệu làm đèn tại đình chùa cũng được chọn lọc từ những loại đá cao cấp. Những loại đá chất lượng này sẽ đảm bảo sự bền bỉ, chắc chắn trước thời tiết và vẫn giữ được vẻ đẹp tự nhiên theo thời gian.
Cặp chân đèn bằng đá
Đèn thờ bằng đá tại khu lăng mộ
Trong các khu lăng mộ, đèn thờ đá là đồ vật không thể thiếu và đóng vai trò vô cùng quan trọng. Đèn thờ bằng đá tạo nên vẻ đẹp hoàn thiện, ấm cúng và cổ kính cho khu lăng mộ thêm phần linh thiêng.
Vị trí đặt của đèn thờ tại khu lăng mộ cũng phải dựa theo nguyên tắc nhất định, không thể đặt một cách bừa bãi, tùy ý. Đèn thờ sẽ được đặt chung với tượng hạc đá, lư hương đá và được đặt tại nơi chính diện của công trình tâm linh. Khi tuân thủ theo cách đặt này, sẽ tạo nên tính thẩm mỹ cao và mang tính phong thủy.
Đèn đá thờ nhà thờ họ
Đèn đá thờ nhà họ cũng sẽ được đặt ở vị trí chính diện của nhà thờ họ cùng với những đồ thờ đá khác kết hợp tạo nên một công trình tâm linh đạt tính thẩm mỹ tuyệt đối. Thông thường, thứ tự đặt của các bộ đồ thờ cúng tâm linh sẽ gồm lư hương ở chính giữa và hai cây đèn ở hai bên. Một quy tắc sắp xếp bộ thờ cúng hợp lý và theo phong thủy sẽ mang đến tổng thể cân bằng, hài hòa và đẹp mắt hơn.
Đèn đá, đèn bằng đá để thờ thường sử dụng chất liệu gì?
Đá xanh Thanh Hóa
Đây là loại đá có màu xanh ghi tự nhiên không qua nhuộm màu hay hóa chất. Dó đó, đá xanh Thanh Hóa luôn giữ được màu xanh thuần khiết nhất theo thời gian dù có sử dụng lâu dài hay dưới tác động của thời tiết. Đèn thờ làm bằng đá xanh Thanh Hóa tạo nên vẻ đẹp sang trọng, tự nhiên đáp ứng được hầu hết các nhu cầu có tính thẩm mỹ cao của khách hàng.
Không chỉ vượt trội bởi màu sắc xanh ghi tự nhiên, đá xanh còn có độ bền cao, cứng cáp, khả năng chống mài mòn cao và chịu được những tác động khắc nghiệt của thời tiết. Thêm vào đó, tính chất của loại đá xanh này cũng rất dễ dàng để các nghệ nhân chạm khắc, tạo hình những hoa văn, họa tiết tinh xảo, nghệ thuật.
Đá xanh rêu
Một chất liệu đá xanh khi làm đèn thờ đá không thể không nhắc đến là dòng đá xanh rêu được dùng khá phổ biến. Đèn thờ bằng đá xanh rêu có tính chất chống thấm nước tốt với bề mặt đá bóng mịn. Loại đá này không chỉ được ưa chuộng làm đèn thờ mà còn phổ biến khi trong các sản phẩm thờ cúng khác như cuốn thư đá, lan can đá, lăng thờ đá,…
Đá trắng
Đá trắng là chất liệu đá được khai thác nhiều ở các núi đá tỉnh Nghệ An. Loại đá này được sử dụng nhiều để làm đèn thờ tại các công trình tâm linh. Màu sắc trắng đặc trưng của dòng đá này tạo nên vẻ đẹp sang trọng, cao cấp, quyền uy và tinh tế tuyệt đối. Ngoài ra, tính chất sáng bóng, láng mịn của đá giúp dễ dàng vệ sinh, lau chùi và đặc biệt là hạn chế những nguy hiểm cho người dùng bởi công nghệ chế tác hiện đại.
Cặp chân đèn bằng đá
Đá vàng
Cũng giống với những loại đá khác, đá vàng cũng được lựa chọn để làm đèn thờ bởi màu vàng quý phái, nổi bật và tạo nét đẹp tự nhiên, thiêng liêng cho công trình tâm linh. Màu vàng đặc trưng của đá kết hợp với những nét hoa văn, họa tiết tinh xảo tạo nên những mẫu đèn thờ đá đẹp và sang trọng cho nhà thờ, đình chùa hay các khu lăng mộ.
Đá Granite
Đá Granite hay còn gọi là đá hoa cương là một chất liệu đá vô cùng cao cấp, không thể thiếu khi làm đèn thờ. Đá granite sở hữu màu sắc sang trọng và đa dạng màu nên dễ dàng đáp ứng hầu hết các yêu cầu về tính thẩm mỹ của khách hàng khi chọn mua đèn thờ đá.
Ngoài ra, đặc tính nổi bật của loại đá này là độ bền vĩnh cửu và độ cứng cao nhất trong các dòng đá nên rất được ưa chuộng khi sử dụng làm đèn thờ đá nói riêng và các sản phẩm, công trình tâm linh bằng đá nói chung. Cùng chính vì những ưu điểm vượt trội của đá granite mà giá thành của loại đá này trên thị trường hiện nay cũng khá cao.
Kích thước đèn đá phong thủy để thờ, đèn sân vườn đẹp
Khi chọn kích thước của đèn phong thủy để thờ, đèn đá sân vườn cần lưu ý một số điểm sau:
Kích thước đèn thờ đá theo chuẩn thước Lỗ Ban phong thủy: đây là yếu tố quan trọng cần lưu ý khi chọn kích thước cho đèn thờ đá bởi nếu kích thước của đèn thờ rơi vào số xấu của thước Lỗ Ban sẽ ảnh hưởng đến vận khí, vận mệnh của gia đình.
Lựa chọn kích thước theo mệnh của gia chủ: những loại đèn đặt tại khuôn viên sân vườn, nhà thờ họ nên lựa chọn kích thước theo mệnh của chủ nhà để thu hút những năng lượng tốt, tích cực cho gia chủ.
Tài chính của khách hàng: chi phí bỏ ra để mua đèn cũng ảnh hưởng đến kích thước. Bởi nếu tài chính gia đình hạn hẹp nên chọn mua những mẫu đèn thờ đá nhỏ gọn, phù hợp túi tiền. Ngược lại, với những gia đình có tài chính thoải mái, có thể lựa chọn những mẫu đèn thờ đá to, hoành tráng và sang trọng hơn để làm đẹp thêm không gian khuôn viên nhà.
Số lượng đèn đá phong thủy: thông thường, sân vườn nhà nên đặt từ 2 – 3 cây đèn thờ đá để mang lại đầy đủ anh sáng và không gian ấm cúng cho gia đình. Do đó, kích thước đèn cũng phải cân đối với sân vườn để tạo nên tổng thể hoàn hảo.
Cặp chân đèn bằng đá
Dưới đây là một số kích thước đèn thờ đá phong thủy được sử dụng phổ biến hiện nay:
Kích thước 69 x 107 (cm): mang ý nghĩa phú quý, thêm đinh và đại cát, quý tử.
Kích thước 81 x 127 (cm): đạt được tài trí, tài vượng và tiến bảo.
Kích thước 89 x 133 (cm): ý nghĩa lục hợp, thêm phúc và nghênh phúc, đại cát.
Kích thước 107 x 173 (cm): thu hút đại cát, quý tử và bảo khố, tài vượng.
Kích thước 127 x 192 (cm): mang ý nghĩa tiến bảo, tiến bảo và đại cát, lục hợp.
Kích thước 147 x 217 (cm): đạt được lợi ích, thêm đinh và tài, tài lộc.
Kích thước 155 x 237 (cm): mang ý nghĩa phú quý, tiến bảo và thuận khoa, tài vượng.
Kích thước 175 x 255 (cm): thu hút lục hợp, thiên khố và tiến bảo, tiến bảo.
Cấu tạo đèn thờ đá, đèn cúng bằng đá
Một tổng thể đèn thờ đá, đèn cúng bằng đá đẹp chắc chắn không thể thiếu 3 bộ phận chính và quan trọng dưới đây:
Phần chân đế: đây là phần quan trọng nhất của đèn cúng giúp nâng đỡ và giữ vững cho phần thân và mái đèn. Do đó, chân đế là phần không thể thiếu khi thi công, lắp đặt đèn thờ đá. Kích thước của chân đế cũng tùy thuộc vào từng mẫu đèn đá và nhu cầu của gia chủ.
Phần thân đèn: kiểu dáng của thân đèn được thiết kế hình trụ đứng với nhiều họa tiết, hoa văn đa dạng, khác nhau tạo nên vẻ đẹp sang trọng và tinh tế cho đèn thờ đá. Thân đèn được gắn kết trực tiếp với phần thân bóng đèn, là phần thắp sáng cho cây đèn.
Phần mái đèn: mái đèn được thiết kế đa dạng nhiều kiểu dáng khác nhau như loại 2 mái, 3 mái. Phần mái là phần ở phía trên cùng của đèn và là phần che mưa gió, tác động của thời tiết và đảm bảo giữ cho thân và chân đèn được lâu bền và đẹp theo thời gian.
Báo giá đèn đá trang trí sân vườn, đèn thờ mới nhất 2022
Khi chọn mua đèn trang trí sân vườn hay đèn thờ cần lưu ý một số yếu tố như kích thước, chất liệu đá, kiểu dáng, địa chỉ cung cấp,… để đảm bảo có được giá thành tốt nhất và một cây đèn đá ưng ý và đẹp nhất cho khuôn viên của mình.
Giá thành của đèn đá sân vườn, đèn thờ thường không cố định mà sẽ dao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Do đó, khách hàng cần tìm đến những cơ sở, địa chỉ thi công, lắp đặt đèn đá uy tín và chuyên nghiệp để được tư vấn và báo giá tốt nhất.
Cơ sở đá Mỹ Nghệ Tín Khôi là cơ sở cung cấp nhiều mẫu mã đèn đá trang trí sân vườn, đèn thờ cúng mới nhất, đẹp nhất với mức giá tốt nhất. Khách hàng khi đến với đá Mỹ Nghệ Tín Khôi có thể an tâm về giá và chất lượng. Bởi chúng tôi không chỉ có đội ngũ tay nghề với nhiều năm kinh nghiệm mà còn có nguồn chất liệu đá làm đèn thờ, đèn trang trí bền và chất lượng đảm bảo cho khách hàng. Hãy liên hệ cơ sở đá Mỹ Nghệ Tín Khôi qua số hotline: 0799456152 để được đội ngũ tư vấn và hỗ trợ nhiệt tình của chúng tôi báo giá chi tiết và cụ thể nhất cho các mẫu đèn đá đẹp nhất 2022.
Cặp chân đèn bằng đá
Địa chỉ bán mẫu đèn đá đẹp, đèn thờ, đèn sân vườn giá rẻ
Hiện nay, có rất nhiều địa chỉ, cơ sở trên thị trường cung cấp các mẫu đèn đá đẹp, đèn thờ và đèn sân vườn giá rẻ. Tuy nhiên, khách hàng cần lựa chọn những địa chỉ uy tín, chất lượng và chuyên nghiệp để có được giá thành tốt nhất.
Địa chỉ bán mẫu đèn đẹp
Cơ sở đá Mỹ Nghệ Tín Khôi là địa chỉ thi công, lắp đặt nhiều mẫu đèn đá đẹp nhất cho các khuôn viên sân vườn, nhà thờ họ, chùa, đình, khu lăng mộ,… Chúng tôi không chỉ đảm bảo về chất lượng đá làm đèn tốt mà còn tự hào với giá đèn đá sân vườn, đèn thờ cạnh tranh và ưu đãi nhất thị trường.
Bên cạnh đó, cơ sở đá Mỹ Nghệ Tín Khôi cũng tự hào sở hữu đội ngũ các nghệ nhân làm nghề nhiều năm kinh nghiệm, có chuyên môn cao và thái độ làm việc chuyên nghiệp. Chúng tôi kết hợp giữa nét truyền thống trong việc chế tác, chạm khắc hoa văn với tính hiện đại của máy móc, công nghệ kỹ thuật để cho ra đời nhiều mẫu đèn đá đẹp nhất năm 2022.
Ngoài ra, đá Mỹ Nghệ Tín Khôi còn cung cấp và thi công nhiều sản phẩm, công trình bằng đá tâm linh khác nhau như lăng mộ đá, cổng đá, bậc tam cấp, cây hương đá,…với nhiều kiểu dáng và hoa văn tinh xảo, sang trọng đáp ứng được hầu hết các yêu cầu của khách hàng.
Tổng hợp mẫu đèn thờ đá, đèn đá sân vườn đẹp nhất 2022
Cùng đá Mỹ Tín Khôi tham khảo thêm nhiều mẫu đèn thờ đá, đèn đá sân vườn đẹp nhất năm 2022 dưới đây:
Bài viết trên đây là toàn bộ những thông tin mà Tín Khôi muốn chia sẻ đến bạn đọc về đèn thờ đá, đèn đá sân vườn. Hy vọng rằng, khách hàng sẽ có thêm nhiều kiến thức và lựa chọn cho mình những mẫu đèn đá thờ cúng đẹp nhất, mang lại nhiều thẩm mỹ, tài lộc và phong thủy cho gia đình.
Để mọi công đoạn thi công, lắp đặt đèn thờ đá chính xác, dễ dàng và nhanh chóng nhất, quý khách hàng hãy liên hệ với đá mỹ nghệ Tín Khôi theo thông tin liên lạc dưới đây:
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết CD36 – Chân Đèn Bằng Đá đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
ĐÈN THỜ ĐÁ
Đèn đá và đèn thờ đá là một trong những món đồ không thể thiếu trong khuôn viên đình, chùa, nhà thờ họ hay các khu lăng mộ. Mẫu đèn này không chỉ để thắp sáng trước sân vườn mà còn mang nhiều ý nghĩa tâm linh, phong thủy bên trong, đặc biệt là những loại đèn thờ đá ở trong các khu lăng mộ, đình, chùa,… Cùng Đá Mỹ Tín Khôi tìm hiểu để có thêm những thông tin bổ ích về đèn thờ đá, đèn đá để lựa chọn cho mình những mẫu đèn đá đẹp cho khuôn viên sân vườn, và không gian thờ cúng linh thiêng nhé.
Cặp chân đèn bằng đá
Đèn đá thờ cúng, đèn đá sân vườn là gì?
Đèn đá là đồ vật phổ biến dùng để thắp sáng trong khuôn viên chùa, đình, miếu. Ngoài ra, nó còn được sử dụng tại sân vườn, trong khuôn viên nhà, nhà hàng, khách sạn, nhà thờ họ,… Đèn giúp tạo nên không gian ấm cúng, sang trọng và mang tính thẩm mỹ cao. Đèn đá được chia làm 2 loại chính là đèn thờ cúng và đèn sân vườn tùy theo mục đích sử dụng.
Ý nghĩa của đèn đá, đèn thờ đá trong đời sống tâm linh
Theo quan niệm dân gian, người Việt luôn có niềm tin rằng ngọn lửa đỏ là sự kết nối giữa thế giới con người và thế giới tâm linh, giữa cõi âm và dương, giữa những người sống và người đã khuất. Điều này thể hiện rõ ràng hơn qua những nghi thức dâng hương cầu nguyện trong những dịp lễ quan trọng. Khi ngọn lửa đèn được thắp lên, người Việt sẽ khấn vái, cầu mong thần linh, gia tiên phù hộ, thành tâm kính mời ông bà về ăn cỗ với niềm tin rằng làn hương khói sẽ theo về cõi thiêng liêng.
Cặp chân đèn bằng đá
Một ý nghĩa tâm linh khác của đèn thờ đá là sự ấm áp, xua tan những không khí lạnh lẽo, u ám nơi thờ cúng thần linh, gia tiên ông bà. Ngoài ra, trong thuyết ngũ hành, những lúc không thắp hương thờ cúng sẽ mất đi sự cân bằng yếu tố hành hỏa, do đó đèn đá sẽ giúp nén hương, ngọn nến được thắp sáng liên tục.
Nói về phong thủy, trên bàn thờ cần hiện diện đủ 5 yếu tố cơ bản gồm Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ mới đạt được sự cân bằng và kích hoạt phúc lộc. Hỏa thường trấn giữ và hóa giải những năng lượng xấu, vận hạn không tốt. Từ đó, thu hút và giữ lại những khí tốt cho gia chủ trong gia đình.
Cây đèn đá thường được lắp ở những địa điểm nào?
Đèn đá tại đình chùa
Đèn thờ đá được lắp tại khuôn viên đình chùa thường có kích thước khoảng 170cm – 190cm là phù hợp và đẹp nhất. Đèn tại đình chùa thường đặt tại nơi chính diện phía trước chùa nhằm thể hiện sự trang nghiêm, linh thiêng và cổ kính. Ngoài ra, do đặt ngoài trời nên vật liệu làm đèn tại đình chùa cũng được chọn lọc từ những loại đá cao cấp. Những loại đá chất lượng này sẽ đảm bảo sự bền bỉ, chắc chắn trước thời tiết và vẫn giữ được vẻ đẹp tự nhiên theo thời gian.
Cặp chân đèn bằng đá
Đèn thờ bằng đá tại khu lăng mộ
Trong các khu lăng mộ, đèn thờ đá là đồ vật không thể thiếu và đóng vai trò vô cùng quan trọng. Đèn thờ bằng đá tạo nên vẻ đẹp hoàn thiện, ấm cúng và cổ kính cho khu lăng mộ thêm phần linh thiêng.
Vị trí đặt của đèn thờ tại khu lăng mộ cũng phải dựa theo nguyên tắc nhất định, không thể đặt một cách bừa bãi, tùy ý. Đèn thờ sẽ được đặt chung với tượng hạc đá, lư hương đá và được đặt tại nơi chính diện của công trình tâm linh. Khi tuân thủ theo cách đặt này, sẽ tạo nên tính thẩm mỹ cao và mang tính phong thủy.
Đèn đá thờ nhà thờ họ
Đèn đá thờ nhà họ cũng sẽ được đặt ở vị trí chính diện của nhà thờ họ cùng với những đồ thờ đá khác kết hợp tạo nên một công trình tâm linh đạt tính thẩm mỹ tuyệt đối. Thông thường, thứ tự đặt của các bộ đồ thờ cúng tâm linh sẽ gồm lư hương ở chính giữa và hai cây đèn ở hai bên. Một quy tắc sắp xếp bộ thờ cúng hợp lý và theo phong thủy sẽ mang đến tổng thể cân bằng, hài hòa và đẹp mắt hơn.
Đèn đá, đèn bằng đá để thờ thường sử dụng chất liệu gì?
Đá xanh Thanh Hóa
Đây là loại đá có màu xanh ghi tự nhiên không qua nhuộm màu hay hóa chất. Dó đó, đá xanh Thanh Hóa luôn giữ được màu xanh thuần khiết nhất theo thời gian dù có sử dụng lâu dài hay dưới tác động của thời tiết. Đèn thờ làm bằng đá xanh Thanh Hóa tạo nên vẻ đẹp sang trọng, tự nhiên đáp ứng được hầu hết các nhu cầu có tính thẩm mỹ cao của khách hàng.
Không chỉ vượt trội bởi màu sắc xanh ghi tự nhiên, đá xanh còn có độ bền cao, cứng cáp, khả năng chống mài mòn cao và chịu được những tác động khắc nghiệt của thời tiết. Thêm vào đó, tính chất của loại đá xanh này cũng rất dễ dàng để các nghệ nhân chạm khắc, tạo hình những hoa văn, họa tiết tinh xảo, nghệ thuật.
Đá xanh rêu
Một chất liệu đá xanh khi làm đèn thờ đá không thể không nhắc đến là dòng đá xanh rêu được dùng khá phổ biến. Đèn thờ bằng đá xanh rêu có tính chất chống thấm nước tốt với bề mặt đá bóng mịn. Loại đá này không chỉ được ưa chuộng làm đèn thờ mà còn phổ biến khi trong các sản phẩm thờ cúng khác như cuốn thư đá, lan can đá, lăng thờ đá,…
Đá trắng
Đá trắng là chất liệu đá được khai thác nhiều ở các núi đá tỉnh Nghệ An. Loại đá này được sử dụng nhiều để làm đèn thờ tại các công trình tâm linh. Màu sắc trắng đặc trưng của dòng đá này tạo nên vẻ đẹp sang trọng, cao cấp, quyền uy và tinh tế tuyệt đối. Ngoài ra, tính chất sáng bóng, láng mịn của đá giúp dễ dàng vệ sinh, lau chùi và đặc biệt là hạn chế những nguy hiểm cho người dùng bởi công nghệ chế tác hiện đại.
Cặp chân đèn bằng đá
Đá vàng
Cũng giống với những loại đá khác, đá vàng cũng được lựa chọn để làm đèn thờ bởi màu vàng quý phái, nổi bật và tạo nét đẹp tự nhiên, thiêng liêng cho công trình tâm linh. Màu vàng đặc trưng của đá kết hợp với những nét hoa văn, họa tiết tinh xảo tạo nên những mẫu đèn thờ đá đẹp và sang trọng cho nhà thờ, đình chùa hay các khu lăng mộ.
Đá Granite
Đá Granite hay còn gọi là đá hoa cương là một chất liệu đá vô cùng cao cấp, không thể thiếu khi làm đèn thờ. Đá granite sở hữu màu sắc sang trọng và đa dạng màu nên dễ dàng đáp ứng hầu hết các yêu cầu về tính thẩm mỹ của khách hàng khi chọn mua đèn thờ đá.
Ngoài ra, đặc tính nổi bật của loại đá này là độ bền vĩnh cửu và độ cứng cao nhất trong các dòng đá nên rất được ưa chuộng khi sử dụng làm đèn thờ đá nói riêng và các sản phẩm, công trình tâm linh bằng đá nói chung. Cùng chính vì những ưu điểm vượt trội của đá granite mà giá thành của loại đá này trên thị trường hiện nay cũng khá cao.
Kích thước đèn đá phong thủy để thờ, đèn sân vườn đẹp
Khi chọn kích thước của đèn phong thủy để thờ, đèn đá sân vườn cần lưu ý một số điểm sau:
Kích thước đèn thờ đá theo chuẩn thước Lỗ Ban phong thủy: đây là yếu tố quan trọng cần lưu ý khi chọn kích thước cho đèn thờ đá bởi nếu kích thước của đèn thờ rơi vào số xấu của thước Lỗ Ban sẽ ảnh hưởng đến vận khí, vận mệnh của gia đình.
Lựa chọn kích thước theo mệnh của gia chủ: những loại đèn đặt tại khuôn viên sân vườn, nhà thờ họ nên lựa chọn kích thước theo mệnh của chủ nhà để thu hút những năng lượng tốt, tích cực cho gia chủ.
Tài chính của khách hàng: chi phí bỏ ra để mua đèn cũng ảnh hưởng đến kích thước. Bởi nếu tài chính gia đình hạn hẹp nên chọn mua những mẫu đèn thờ đá nhỏ gọn, phù hợp túi tiền. Ngược lại, với những gia đình có tài chính thoải mái, có thể lựa chọn những mẫu đèn thờ đá to, hoành tráng và sang trọng hơn để làm đẹp thêm không gian khuôn viên nhà.
Số lượng đèn đá phong thủy: thông thường, sân vườn nhà nên đặt từ 2 – 3 cây đèn thờ đá để mang lại đầy đủ anh sáng và không gian ấm cúng cho gia đình. Do đó, kích thước đèn cũng phải cân đối với sân vườn để tạo nên tổng thể hoàn hảo.
Cặp chân đèn bằng đá
Dưới đây là một số kích thước đèn thờ đá phong thủy được sử dụng phổ biến hiện nay:
Kích thước 69 x 107 (cm): mang ý nghĩa phú quý, thêm đinh và đại cát, quý tử.
Kích thước 81 x 127 (cm): đạt được tài trí, tài vượng và tiến bảo.
Kích thước 89 x 133 (cm): ý nghĩa lục hợp, thêm phúc và nghênh phúc, đại cát.
Kích thước 107 x 173 (cm): thu hút đại cát, quý tử và bảo khố, tài vượng.
Kích thước 127 x 192 (cm): mang ý nghĩa tiến bảo, tiến bảo và đại cát, lục hợp.
Kích thước 147 x 217 (cm): đạt được lợi ích, thêm đinh và tài, tài lộc.
Kích thước 155 x 237 (cm): mang ý nghĩa phú quý, tiến bảo và thuận khoa, tài vượng.
Kích thước 175 x 255 (cm): thu hút lục hợp, thiên khố và tiến bảo, tiến bảo.
Cấu tạo đèn thờ đá, đèn cúng bằng đá
Một tổng thể đèn thờ đá, đèn cúng bằng đá đẹp chắc chắn không thể thiếu 3 bộ phận chính và quan trọng dưới đây:
Phần chân đế: đây là phần quan trọng nhất của đèn cúng giúp nâng đỡ và giữ vững cho phần thân và mái đèn. Do đó, chân đế là phần không thể thiếu khi thi công, lắp đặt đèn thờ đá. Kích thước của chân đế cũng tùy thuộc vào từng mẫu đèn đá và nhu cầu của gia chủ.
Phần thân đèn: kiểu dáng của thân đèn được thiết kế hình trụ đứng với nhiều họa tiết, hoa văn đa dạng, khác nhau tạo nên vẻ đẹp sang trọng và tinh tế cho đèn thờ đá. Thân đèn được gắn kết trực tiếp với phần thân bóng đèn, là phần thắp sáng cho cây đèn.
Phần mái đèn: mái đèn được thiết kế đa dạng nhiều kiểu dáng khác nhau như loại 2 mái, 3 mái. Phần mái là phần ở phía trên cùng của đèn và là phần che mưa gió, tác động của thời tiết và đảm bảo giữ cho thân và chân đèn được lâu bền và đẹp theo thời gian.
Báo giá đèn đá trang trí sân vườn, đèn thờ mới nhất 2022
Khi chọn mua đèn trang trí sân vườn hay đèn thờ cần lưu ý một số yếu tố như kích thước, chất liệu đá, kiểu dáng, địa chỉ cung cấp,… để đảm bảo có được giá thành tốt nhất và một cây đèn đá ưng ý và đẹp nhất cho khuôn viên của mình.
Giá thành của đèn đá sân vườn, đèn thờ thường không cố định mà sẽ dao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Do đó, khách hàng cần tìm đến những cơ sở, địa chỉ thi công, lắp đặt đèn đá uy tín và chuyên nghiệp để được tư vấn và báo giá tốt nhất.
Cơ sở đá Mỹ Nghệ Tín Khôi là cơ sở cung cấp nhiều mẫu mã đèn đá trang trí sân vườn, đèn thờ cúng mới nhất, đẹp nhất với mức giá tốt nhất. Khách hàng khi đến với đá Mỹ Nghệ Tín Khôi có thể an tâm về giá và chất lượng. Bởi chúng tôi không chỉ có đội ngũ tay nghề với nhiều năm kinh nghiệm mà còn có nguồn chất liệu đá làm đèn thờ, đèn trang trí bền và chất lượng đảm bảo cho khách hàng. Hãy liên hệ cơ sở đá Mỹ Nghệ Tín Khôi qua số hotline: 0799456152 để được đội ngũ tư vấn và hỗ trợ nhiệt tình của chúng tôi báo giá chi tiết và cụ thể nhất cho các mẫu đèn đá đẹp nhất 2022.
Cặp chân đèn bằng đá
Địa chỉ bán mẫu đèn đá đẹp, đèn thờ, đèn sân vườn giá rẻ
Hiện nay, có rất nhiều địa chỉ, cơ sở trên thị trường cung cấp các mẫu đèn đá đẹp, đèn thờ và đèn sân vườn giá rẻ. Tuy nhiên, khách hàng cần lựa chọn những địa chỉ uy tín, chất lượng và chuyên nghiệp để có được giá thành tốt nhất.
Địa chỉ bán mẫu đèn đẹp
Cơ sở đá Mỹ Nghệ Tín Khôi là địa chỉ thi công, lắp đặt nhiều mẫu đèn đá đẹp nhất cho các khuôn viên sân vườn, nhà thờ họ, chùa, đình, khu lăng mộ,… Chúng tôi không chỉ đảm bảo về chất lượng đá làm đèn tốt mà còn tự hào với giá đèn đá sân vườn, đèn thờ cạnh tranh và ưu đãi nhất thị trường.
Bên cạnh đó, cơ sở đá Mỹ Nghệ Tín Khôi cũng tự hào sở hữu đội ngũ các nghệ nhân làm nghề nhiều năm kinh nghiệm, có chuyên môn cao và thái độ làm việc chuyên nghiệp. Chúng tôi kết hợp giữa nét truyền thống trong việc chế tác, chạm khắc hoa văn với tính hiện đại của máy móc, công nghệ kỹ thuật để cho ra đời nhiều mẫu đèn đá đẹp nhất năm 2022.
Ngoài ra, đá Mỹ Nghệ Tín Khôi còn cung cấp và thi công nhiều sản phẩm, công trình bằng đá tâm linh khác nhau như lăng mộ đá, cổng đá, bậc tam cấp, cây hương đá,…với nhiều kiểu dáng và hoa văn tinh xảo, sang trọng đáp ứng được hầu hết các yêu cầu của khách hàng.
Tổng hợp mẫu đèn thờ đá, đèn đá sân vườn đẹp nhất 2022
Cùng đá Mỹ Tín Khôi tham khảo thêm nhiều mẫu đèn thờ đá, đèn đá sân vườn đẹp nhất năm 2022 dưới đây:
Bài viết trên đây là toàn bộ những thông tin mà Tín Khôi muốn chia sẻ đến bạn đọc về đèn thờ đá, đèn đá sân vườn. Hy vọng rằng, khách hàng sẽ có thêm nhiều kiến thức và lựa chọn cho mình những mẫu đèn đá thờ cúng đẹp nhất, mang lại nhiều thẩm mỹ, tài lộc và phong thủy cho gia đình.
Để mọi công đoạn thi công, lắp đặt đèn thờ đá chính xác, dễ dàng và nhanh chóng nhất, quý khách hàng hãy liên hệ với đá mỹ nghệ Tín Khôi theo thông tin liên lạc dưới đây:
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết CD31 – Chân Đèn Bằng Đá đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Là Ai?
Tượng thích ca mâu ni bằng đá tại cơ sở Tín Khôi
Đức Phật Thích Ca khi còn nhỏ, Thái tử Siddhartha Gautama (sau này là Đức Phật) sinh ra tại vườn Lumbini ở thủ đô Kapilavastu của một vương quốc nhỏ nằm dưới chân dãy Himalaya của Ấn Độ cổ đại.
Nhiều người không biết rằng Đức Phật Thích Ca đang nói đến chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài còn có những tên gọi thông thường khác mà người Việt Nam vẫn quen gọi: Đức Phật, Như Lai Phật Tổ, Như Lai Phật Tổ, Tất Đạt Đa Cồ Đàm,… Trong đó, Như Lai là danh hiệu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Đức Phật Thích Ca chính là Thái tử Tất Đạt Đa – người có xuất thân cao quý nhất trong triều đại. Sinh ra tại vương quốc Thích Ca (Shakya – Ca) ngày nay thuộc Ấn Độ. Ngài nhận ra chân lý của chính mình, thoát khỏi luật sinh tử. Đồng thời, Ngài truyền bá những triết lý đó cho con người trên trái đất để họ thoát khỏi đau khổ.
Những lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni luôn hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc, và dù thời gian có trôi đi nhưng những lời dạy về cuộc sống và giới luật được giảng giải vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.
>>>>Xem Thêm:Tượng Phật Thích Ca
Ý Nghĩa Của Việc Thờ Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch trắng nguyên khối
Thờ tượng phật là một nét đẹp trong văn hóa tín ngưỡng tâm linh của người Việt. Dù thờ bất cứ vị Phật nào thì cũng mang lại những ý nghĩa tốt đẹp cho gia chủ. Phật Thích Ca là người dám từ bỏ ngai vàng, phú quý, giàu sang để đi tìm chân lý của cuộc đời với bao khó khăn, đói khổ và đã giác ngộ, giải thoát bản thân khỏi thế tục, Phật Thích Ca chính là người khai sinh ra Phật giáo. Vì vậy, việc thờ Phật Thích ca thể hiện sự giác ngộ của gia chủ: thành tâm hướng thiện, muốn giải thoát mình khỏi các thói xấu tham sân si ở đời và muốn cầu cho gia đạo luôn được an lành, tâm thanh tịnh.
Giúp Con Người Thức Tỉnh Chân Lý Cuộc Sống
Phật giúp con người sớm thức tỉnh nhận ra chân lý của sự khổ đau, thoát khỏi bể khổ để đến với những điều tốt đẹp nhất. Nhờ đó con người được thức tỉnh, nhận ra những điều chân lý và tránh khỏi cái ác, buồn đau cuộc sống.
Thể Hiện Sự Trân Trọng Quá Khứ
Trong gia đình, các gia chủ thường đặt tượng Phật A Di Đà cạnh đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Phật Di Lặc để thể hiện cho quá khứ, hiện tại và tương lai. Có quá khứ mới có hiện tại và hiện tại sẽ cố gắng cho tương lai. Việc thờ tượng Phật thể hiện sự trân trọng quá khứ và công ơn của thần thánh đã phù hộ độ trì cho con người.
Cầu Mong Sự Bình An Và May Mắn
Phật là hiện thân của những điều tốt đẹp, việc thờ Phật mang thông điệp cầu mong sự phù hộ độ trì của Thần phật cho cuộc sống của con người được bình an và may mắn.
Bên cạnh đó, Phật còn giúp con người tránh được những điều xui, vận hạn trong cuộc sống. Tuy nhiên, nên thờ tượng phật nào trong nhà để mang lại những giá trị phong thủy tốt nhất thì gia chủ cũng cần lưu ý kĩ.
Vị Trí Lập Bàn Thờ Tượng Phật Thích Ca Trong Nhà.
Đối với những nhà rộng, có diện tích thì nên dành riêng một gian để thờ Phật riêng. Những ngôi nhà có thiết kế hiện đại còn xây riêng một tần thượng để thờ Phật Thích Ca. Trường hợp không có gian riêng cũng vẫn có thể thờ tượng Phật ở gian chính ở trên các kệ cao được thiết kế một cách trang trọng. Bàn thợ Phật phải luôn được giữ sạch sẽ, lau chùi thường xuyên.
Mặt tượng Phật nên quay về hướng Đông vì đây là hướng mặt trời mọc mà Đức Phật Thích Ca quay ra để thiền định giác ngộ. Hướng bàn thờ nên đặt theo hướng Tây Bắc vì đây là hướng tượng trưng cho trời: Tây thiên cực lạc. Tuyệt đối nên tránh đặt bàn thờ ở hướng Đông Bắc nhìn về Tây Nam và ngược lại vì đây là hai hướng ngũ qủy có rất nhiều xung khí.
Những Điều Nên Và Không Nên Làm Khi Lập Bàn Thờ Tượng Phật Thích Ca Trong Nhà.
Những Điều Nên Làm:
+ Đặt tượng Phật Thích Ca hướng ra cửa chính.
+ Tốt nhất nên thờ tượng Phật Thích Ca ở gian riêng, trên lầu cao nhất của ngôi nhà hay ở những vị trí tôn kính mà không quá ồn ào hay nhiều người qua lại.
+ Tượng trên bàn thờ nên đặt trên miếng giấy lót đỏ.
+ Bàn thờ và tượng nên lau chùi thường xuyên, khăn chậu phải đảm bảo còn mới. Có thể dùng nước sạch, rượu, nước hoa, nước bưởi để lau chùi.
+ Hàng ngày nên thắp hương sáng tối và phải đảm bảo hương còn mới, đồ cúng phải đảm bảo tươi ngon. Nên để đèn bàn thờ luôn luôn bật sáng để thu hút năng lượng dương.
+ Tượng bị cũ, mờ nên tô vẽ lại. Nếu tượng Phật bị hư hỏng quá mức thì dùng giấy vàng gói lại để ngày 1, 3, 5, 7, 9 đốt dưới nắng tiễn tượng Phật quy vị. Không nên bạ đâu bỏ đó mà mang tội.
Những Điều Không Nên Làm:
+ Không được dùng gỗ hay vật liệu đã sử dụng qua làm bàn thờ Phật vì như vậy là bất kính.
+ Trên bàn thờ không được để các dị vật khác.
+ Tượng Phật rất linh thiêng nên không được cất trong các hộp, tủ hay két sắt vì như vậy giống như bạn đang cố nhốt Phật vậy. Hành động này vừa không giúp phù hộ cho gia đình mà còn làm cho các thành viên dễ bị bệnh đau ốm thường xuyên.
+ Tuyệt đối không được để tượng Phật Thích Ca lung tung trong nhà, kị nhất là những nơi không sạch sẽ ẩm thấp.
+ Dù cho nên đặt bàn thờ ở những hướng tốt nhưng không vì thể mà đặt bàn thờ ở những vị trí ồn ào, nhiều người qua lại sẽ làm mất đi sự thanh tịnh nơi thờ cúng.
+ Không đặt tượng Phật Thích Ca ở những nơi riêng tư như phòng ăn, phòng ngủ hoặc hướng mặt về những nơi thiếu trang nghiêm như phòng tắm, bếp hay nhà vệ sinh, dưới xà nhà hay gầm cầu thang…
+ Không nên đặt giường ngủ phía sau bàn thờ Phật Thích Ca vì ngủ sẽ không an giấc và còn hay gặp mộng mị
Một số mẫu tượng Thích Ca mâu ni tại cơ sở điêu khắc Tín Khôi:
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch
Tượng Phật Thích Ca bằng đá cà rốt
Mua Tượng Chân Dung Bằng Đá Ở Đâu Chất Lượng, Uy Tín?
Tượng Thích Ca Mâu Ni Bằng Đá Ấn Độ Nhập Khẩu
Cơ sở khắc đá Tín Khôi chuyên thiết kế và thi công sản phẩm tượng đá, trong đó có tượng Thích Ca mâu ni từ đá tự nhiên, nguyên khối. Tượng Thích Ca mâu ni bằng đá được các nghệ nhân của chúng tôi chế tác rất đa dạng, phong phú về hình ảnh, mẫu mã, kích thước……đảm bảo đáp ứng mọi yêu cầu cũng như tiêu chí của khách hàng. Ngoài sản phẩm tượng Thích Ca mâu ni được nhiều khách hàng tin tưởng và lựa chọn, cơ sở đá Tín Khôi còn nổi trội với các dòng sản phẩm khác như : Tượng Phật bằng đá, tượng đá nghệ thuật, tượng linh vật bằng đá……
Kế thừa và phát huy truyền thống làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước Ngũ Hành Sơn, cơ sở đá mỹ nghệ Tín Khôi là một trong những cơ sở tiêu biểu, nổi bật bậc nhất làng nghề. Được sự công nhận và tin yêu của nhiều khách hàng khắp trên cả nước. Chúng tôi tự tin sẽ mang tới những bức tượng Thích Ca mâu ni tốt nhất, đẹp nhất cho khách hàng.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni Đá Ấn Độ Cao 30cm – TC110 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Nguồn Gốc Của Danh Xưng Quan Âm
Theo 1 truyền thuyết Phật Giáo, những ai khi đã tu thành chánh quả sẽ đạt được tới cảnh giới ngũ giác đồng quy, tức 5 giác quan hòa làm một, giúp họ có thể dùng tai để “thấy”, mắt để “nghe” và lưỡi để “ngửi”. Khi đó, họ sẽ được trao cho danh xưng là Quan âm, Quan Thế m hay Quán Thế âm.
Chính vì thế, Quan âm Bồ Tát mang hình ảnh của 1 vị Đại sĩ luôn có thể “nhìn”, “cảm” và “nghe” được những tiếng ai oán, khổ đau thầm kín nhất của chúng sinh, từ đó giúp họ tai qua nạn khỏi, vượt ngàn thử thách bằng sự thần thông, quảng đại của mình.
Hình Tượng Phật Quan Âm
Tượng Quan Thế Âm bồ tát bằng đá
Như đã nói ở trên, Phật Quan âm là biểu tượng của pháp lực từ bi, giác ngộ – được cho là sức mạnh tinh thần cao nhất đối với Phật Giáo. Bên cạnh đó, Phật Giáo cũng không phân biệt nam nữ, vì để giúp cho người khổ nạn được cứu trợ cảm thấy gần gũi, tin tưởng hơn, tạo hình Quan âm sẽ thay đổi linh hoạt, có khi là nam hoặc cũng có khi là nữ.
>>>>Xem Thêm:Tượng phật Quan Âm
Ngoài ra, vì đối tượng được Quan âm phổ độ thường là những phụ nữ, trẻ nhỏ yếu đuối nên các Phật Tử thường so sánh ngài như người mẹ hiền từ và khắc họa bằng hình ảnh 1 người phụ nữ có gương mặt
hòa ái. Các tạo hình hay thấy của Quan âm là:
Quan âm Tống Tử: Hình ảnh Quan Thế âm đang bế 1 em bé trên tay, mang ý nghĩa cầu con cũng như có thể sinh con được như mong ước.
Phật Bà Nghìn Mắt Nghìn Tay: Biểu tượng cho sự nhìn thấu lẽ đời, từ đó phổ độ, phù trợ cho chúng sinh trên khắp thế giới.
Các tạo hình thường thấy khác: Quan âm cứu nạn trên biển, Quan âm cưỡi mây, Quan âm cưỡi rồng,…
Quan Thế âm ngồi trên đài sen, tay trái cầm cành liễu, tay phải cầm bình nước Cam Lồ: Dùng sự tinh khiết của tự nhiên, đất trời mà giác ngộ cho chúng sinh.
Một số hình ảnh tượng phật bà Quan Thế Âm bồ tát bằng đá tại cơ sở Tín Khôi:
Tượng Quan Thế Âm bồ tát bằng đá
Tượng Quan Thế Âm bồ tát bằng đá
Đang điêu khắc Tượng Quan Thế Âm bồ tát bằng đá tại cơ sở Tín Khôi
Ý Nghĩa Tượng Phật Quan Âm Trong Phong Thủy
Thanh Tịnh Tâm Hồn:
Dù Đứng Hay Ngồi Thì Hình Tượng Phật Tổ Như Lai Và Phật Quan M Đều Có Thể Khởi Được Niệm Lành, Gạt Bỏ Những Si Mê, Xấu Ác Trong Lòng Mỗi Người, Giúp Cho Tâm Bản Của Chúng Sinh Khi Chiêm Ngưỡng Dung Nhan Đức Phật Sẽ Tìm Thấy Sự An Lạc, Hạnh Phúc, Đồng Thời Còn Giúp Ta Nuôi Lớn Được Tâm Tính Từ Bi, Vị Tha Và Lương Thiện.
Mang Lại Sức Khỏe, May Mắn:
Bởi Mang Gương Mặt Nhân Hậu, Hiền Từ, Giúp Đem Đến Nguồn Năng Lượng Lạc Quan, Tích Cực Đến Cho Gia Chủ Nên Tượng Phật Quan Âm Bồ Tát Có Thể Sẽ Khiến Cho Công Việc Của Các Thành Viên Trong Gia Đình Trở Nên Suôn Sẻ Cũng Như Sức Khỏe Tinh Thần Và Sức Khỏe Thể Xác Sẽ Được Cải Thiện Tốt Hơn.
Kích Hoạt Năng Lượng Tích Cực Cho Không Gian:
Tượng Phật Quan âm giúp kích hoạt năng lượng tích cực cho không gian
Không Chỉ Mang Các Ý Nghĩ Tinh Thần Như Trên, Việc Thờ Phật Quan Âm Còn Được Xem Như Một Nét Đẹp Văn Hóa Truyền Thống Trong Đời Sống Tâm Linh Của Người Dân Tộc Việt. Đặc Biệt, Các Bức Tượng Phật Được Điêu Khắc Tinh Xảo Còn Tạo Nên Cho Ngôi Nhà Của Bạn Một Không Gian Xinh Đẹp, An Yên Và Thanh Bình.
Cách Bài Trí Tượng Phật Quan Âm
Tượng Quan Thế Âm bồ tát bằng đá cẩm thạch
Đối với phong thủy, vị trí đặt tượng Phật Quan âm đặc biệt quan trọng vì có thể ảnh hưởng đến sự may mắn, bình an và vận khí tài lộc của gia chủ. Chính vì thế, ngoài việc phải chọn nơi mua tượng Phật Bà Quan âm uy tín để có thể về thẳng nhà sau khi mua, bạn nên lưu ý một số điều sau đây:
Trước khi thỉnh Phật Bà về, bạn nên chuẩn bị nơi đặt tượng kỹ càng, cần bài trí lư hương, chén nước, hoa quả cúng và bình hoa sao cho thật trang nghiêm.
Nên đặt tượng ở những nơi trang trọng như phòng thờ riêng hay các vị trí trên cao, ở giữa nhà và hướng ra cửa chính để tỏ lòng thành kính đối với tấm lòng từ bi của Phật Quan m.
Không nên đặt tượng Quan Thế âm cùng các tượng Đức Phật khác để tránh làm giảm nghĩa phong thủy của tượng Phật.
Tuyệt đối không đặt tượng Phật Quan âm cùng những tượng thần khác, vì Quan Thế âm Bồ Tát vốn là 1 vị Phật ăn chay nên việc cúng đồ mặn chung với nhiều tượng thần sẽ không tạo được sự trang trọng.
Đồng thời, tối kỵ các hướng đặt tượng Quan âm quay vào những nơi riêng tư như phòng vệ sinh, bàn ăn hay phòng ngủ vì sẽ không được trang nghiêm, ảnh hưởng xấu đến vận khí của gia đình.
Trên đây là ý nghĩa của tượng Phật Quan âm đối với phong thủy. Hy vọng với bài viết này của CƠ SỞ ĐIÊU KHẮC ĐÁ TÍN KHÔI, bạn đã có thêm nhiều thông tin bổ ích để giúp cho cuộc sống tinh thần của mỗi thành viên trong gia đình mình thêm thanh tịnh, bình an và sáng suốt nhé!
Mua Tượng Phật QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT Bằng Đá Ở Đâu Chất Lượng, Uy Tín?
Cơ sở khắc đá Tín Khôi chuyên thiết kế và thi công sản phẩm tượng đá, trong đó có tượng phật QUAN THẾ ÂM làm từ đá tự nhiên, nguyên khối. Tượng chân dung bằng đá được các nghệ nhân của chúng tôi chế tác rất đa dạng, phong phú về hình ảnh, mẫu mã, kích thước……đảm bảo đáp ứng mọi yêu cầu cũng như tiêu chí của khách hàng. Ngoài sản phẩm tượng phật QUAN THẾ ÂM được nhiều khách hàng tin tưởng và lựa chọn, cơ sở đá Tín Khôi còn nổi trội với các dòng sản phẩm khác như : Tượng Phật bằng đá, tượng đá nghệ thuật, tượng linh vật bằng đá……
Kế thừa và phát huy truyền thống làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước Ngũ Hành Sơn, cơ sở đá mỹ nghệ Tín Khôi là một trong những cơ sở tiêu biểu, nổi bật bậc nhất làng nghề. Được sự công nhận và tin yêu của nhiều khách hàng khắp trên cả nước. Chúng tôi tự tin sẽ mang tới những bức tượng phật QUAN ÂM tốt nhất, đẹp nhất cho khách hàng.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng quan thế âm bồ tát đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiết .
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát – BT174 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
ĐÈN THỜ ĐÁ
Đèn đá và đèn thờ đá là một trong những món đồ không thể thiếu trong khuôn viên đình, chùa, nhà thờ họ hay các khu lăng mộ. Mẫu đèn này không chỉ để thắp sáng trước sân vườn mà còn mang nhiều ý nghĩa tâm linh, phong thủy bên trong, đặc biệt là những loại đèn thờ đá ở trong các khu lăng mộ, đình, chùa,… Cùng Đá Mỹ Tín Khôi tìm hiểu để có thêm những thông tin bổ ích về đèn thờ đá, đèn đá để lựa chọn cho mình những mẫu đèn đá đẹp cho khuôn viên sân vườn, và không gian thờ cúng linh thiêng nhé.
Cặp chân đèn bằng đá
Đèn đá thờ cúng, đèn đá sân vườn là gì?
Đèn đá là đồ vật phổ biến dùng để thắp sáng trong khuôn viên chùa, đình, miếu. Ngoài ra, nó còn được sử dụng tại sân vườn, trong khuôn viên nhà, nhà hàng, khách sạn, nhà thờ họ,… Đèn giúp tạo nên không gian ấm cúng, sang trọng và mang tính thẩm mỹ cao. Đèn đá được chia làm 2 loại chính là đèn thờ cúng và đèn sân vườn tùy theo mục đích sử dụng.
Ý nghĩa của đèn đá, đèn thờ đá trong đời sống tâm linh
Theo quan niệm dân gian, người Việt luôn có niềm tin rằng ngọn lửa đỏ là sự kết nối giữa thế giới con người và thế giới tâm linh, giữa cõi âm và dương, giữa những người sống và người đã khuất. Điều này thể hiện rõ ràng hơn qua những nghi thức dâng hương cầu nguyện trong những dịp lễ quan trọng. Khi ngọn lửa đèn được thắp lên, người Việt sẽ khấn vái, cầu mong thần linh, gia tiên phù hộ, thành tâm kính mời ông bà về ăn cỗ với niềm tin rằng làn hương khói sẽ theo về cõi thiêng liêng.
Cặp chân đèn bằng đá
Một ý nghĩa tâm linh khác của đèn thờ đá là sự ấm áp, xua tan những không khí lạnh lẽo, u ám nơi thờ cúng thần linh, gia tiên ông bà. Ngoài ra, trong thuyết ngũ hành, những lúc không thắp hương thờ cúng sẽ mất đi sự cân bằng yếu tố hành hỏa, do đó đèn đá sẽ giúp nén hương, ngọn nến được thắp sáng liên tục.
Nói về phong thủy, trên bàn thờ cần hiện diện đủ 5 yếu tố cơ bản gồm Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ mới đạt được sự cân bằng và kích hoạt phúc lộc. Hỏa thường trấn giữ và hóa giải những năng lượng xấu, vận hạn không tốt. Từ đó, thu hút và giữ lại những khí tốt cho gia chủ trong gia đình.
Cây đèn đá thường được lắp ở những địa điểm nào?
Đèn đá tại đình chùa
Đèn thờ đá được lắp tại khuôn viên đình chùa thường có kích thước khoảng 170cm – 190cm là phù hợp và đẹp nhất. Đèn tại đình chùa thường đặt tại nơi chính diện phía trước chùa nhằm thể hiện sự trang nghiêm, linh thiêng và cổ kính. Ngoài ra, do đặt ngoài trời nên vật liệu làm đèn tại đình chùa cũng được chọn lọc từ những loại đá cao cấp. Những loại đá chất lượng này sẽ đảm bảo sự bền bỉ, chắc chắn trước thời tiết và vẫn giữ được vẻ đẹp tự nhiên theo thời gian.
Cặp chân đèn bằng đá
Đèn thờ bằng đá tại khu lăng mộ
Trong các khu lăng mộ, đèn thờ đá là đồ vật không thể thiếu và đóng vai trò vô cùng quan trọng. Đèn thờ bằng đá tạo nên vẻ đẹp hoàn thiện, ấm cúng và cổ kính cho khu lăng mộ thêm phần linh thiêng.
Vị trí đặt của đèn thờ tại khu lăng mộ cũng phải dựa theo nguyên tắc nhất định, không thể đặt một cách bừa bãi, tùy ý. Đèn thờ sẽ được đặt chung với tượng hạc đá, lư hương đá và được đặt tại nơi chính diện của công trình tâm linh. Khi tuân thủ theo cách đặt này, sẽ tạo nên tính thẩm mỹ cao và mang tính phong thủy.
Đèn đá thờ nhà thờ họ
Đèn đá thờ nhà họ cũng sẽ được đặt ở vị trí chính diện của nhà thờ họ cùng với những đồ thờ đá khác kết hợp tạo nên một công trình tâm linh đạt tính thẩm mỹ tuyệt đối. Thông thường, thứ tự đặt của các bộ đồ thờ cúng tâm linh sẽ gồm lư hương ở chính giữa và hai cây đèn ở hai bên. Một quy tắc sắp xếp bộ thờ cúng hợp lý và theo phong thủy sẽ mang đến tổng thể cân bằng, hài hòa và đẹp mắt hơn.
Đèn đá, đèn bằng đá để thờ thường sử dụng chất liệu gì?
Đá xanh Thanh Hóa
Đây là loại đá có màu xanh ghi tự nhiên không qua nhuộm màu hay hóa chất. Dó đó, đá xanh Thanh Hóa luôn giữ được màu xanh thuần khiết nhất theo thời gian dù có sử dụng lâu dài hay dưới tác động của thời tiết. Đèn thờ làm bằng đá xanh Thanh Hóa tạo nên vẻ đẹp sang trọng, tự nhiên đáp ứng được hầu hết các nhu cầu có tính thẩm mỹ cao của khách hàng.
Không chỉ vượt trội bởi màu sắc xanh ghi tự nhiên, đá xanh còn có độ bền cao, cứng cáp, khả năng chống mài mòn cao và chịu được những tác động khắc nghiệt của thời tiết. Thêm vào đó, tính chất của loại đá xanh này cũng rất dễ dàng để các nghệ nhân chạm khắc, tạo hình những hoa văn, họa tiết tinh xảo, nghệ thuật.
Đá xanh rêu
Một chất liệu đá xanh khi làm đèn thờ đá không thể không nhắc đến là dòng đá xanh rêu được dùng khá phổ biến. Đèn thờ bằng đá xanh rêu có tính chất chống thấm nước tốt với bề mặt đá bóng mịn. Loại đá này không chỉ được ưa chuộng làm đèn thờ mà còn phổ biến khi trong các sản phẩm thờ cúng khác như cuốn thư đá, lan can đá, lăng thờ đá,…
Đá trắng
Đá trắng là chất liệu đá được khai thác nhiều ở các núi đá tỉnh Nghệ An. Loại đá này được sử dụng nhiều để làm đèn thờ tại các công trình tâm linh. Màu sắc trắng đặc trưng của dòng đá này tạo nên vẻ đẹp sang trọng, cao cấp, quyền uy và tinh tế tuyệt đối. Ngoài ra, tính chất sáng bóng, láng mịn của đá giúp dễ dàng vệ sinh, lau chùi và đặc biệt là hạn chế những nguy hiểm cho người dùng bởi công nghệ chế tác hiện đại.
Cặp chân đèn bằng đá
Đá vàng
Cũng giống với những loại đá khác, đá vàng cũng được lựa chọn để làm đèn thờ bởi màu vàng quý phái, nổi bật và tạo nét đẹp tự nhiên, thiêng liêng cho công trình tâm linh. Màu vàng đặc trưng của đá kết hợp với những nét hoa văn, họa tiết tinh xảo tạo nên những mẫu đèn thờ đá đẹp và sang trọng cho nhà thờ, đình chùa hay các khu lăng mộ.
Đá Granite
Đá Granite hay còn gọi là đá hoa cương là một chất liệu đá vô cùng cao cấp, không thể thiếu khi làm đèn thờ. Đá granite sở hữu màu sắc sang trọng và đa dạng màu nên dễ dàng đáp ứng hầu hết các yêu cầu về tính thẩm mỹ của khách hàng khi chọn mua đèn thờ đá.
Ngoài ra, đặc tính nổi bật của loại đá này là độ bền vĩnh cửu và độ cứng cao nhất trong các dòng đá nên rất được ưa chuộng khi sử dụng làm đèn thờ đá nói riêng và các sản phẩm, công trình tâm linh bằng đá nói chung. Cùng chính vì những ưu điểm vượt trội của đá granite mà giá thành của loại đá này trên thị trường hiện nay cũng khá cao.
Kích thước đèn đá phong thủy để thờ, đèn sân vườn đẹp
Khi chọn kích thước của đèn phong thủy để thờ, đèn đá sân vườn cần lưu ý một số điểm sau:
Kích thước đèn thờ đá theo chuẩn thước Lỗ Ban phong thủy: đây là yếu tố quan trọng cần lưu ý khi chọn kích thước cho đèn thờ đá bởi nếu kích thước của đèn thờ rơi vào số xấu của thước Lỗ Ban sẽ ảnh hưởng đến vận khí, vận mệnh của gia đình.
Lựa chọn kích thước theo mệnh của gia chủ: những loại đèn đặt tại khuôn viên sân vườn, nhà thờ họ nên lựa chọn kích thước theo mệnh của chủ nhà để thu hút những năng lượng tốt, tích cực cho gia chủ.
Tài chính của khách hàng: chi phí bỏ ra để mua đèn cũng ảnh hưởng đến kích thước. Bởi nếu tài chính gia đình hạn hẹp nên chọn mua những mẫu đèn thờ đá nhỏ gọn, phù hợp túi tiền. Ngược lại, với những gia đình có tài chính thoải mái, có thể lựa chọn những mẫu đèn thờ đá to, hoành tráng và sang trọng hơn để làm đẹp thêm không gian khuôn viên nhà.
Số lượng đèn đá phong thủy: thông thường, sân vườn nhà nên đặt từ 2 – 3 cây đèn thờ đá để mang lại đầy đủ anh sáng và không gian ấm cúng cho gia đình. Do đó, kích thước đèn cũng phải cân đối với sân vườn để tạo nên tổng thể hoàn hảo.
Cặp chân đèn bằng đá
Dưới đây là một số kích thước đèn thờ đá phong thủy được sử dụng phổ biến hiện nay:
Kích thước 69 x 107 (cm): mang ý nghĩa phú quý, thêm đinh và đại cát, quý tử.
Kích thước 81 x 127 (cm): đạt được tài trí, tài vượng và tiến bảo.
Kích thước 89 x 133 (cm): ý nghĩa lục hợp, thêm phúc và nghênh phúc, đại cát.
Kích thước 107 x 173 (cm): thu hút đại cát, quý tử và bảo khố, tài vượng.
Kích thước 127 x 192 (cm): mang ý nghĩa tiến bảo, tiến bảo và đại cát, lục hợp.
Kích thước 147 x 217 (cm): đạt được lợi ích, thêm đinh và tài, tài lộc.
Kích thước 155 x 237 (cm): mang ý nghĩa phú quý, tiến bảo và thuận khoa, tài vượng.
Kích thước 175 x 255 (cm): thu hút lục hợp, thiên khố và tiến bảo, tiến bảo.
Cấu tạo đèn thờ đá, đèn cúng bằng đá
Một tổng thể đèn thờ đá, đèn cúng bằng đá đẹp chắc chắn không thể thiếu 3 bộ phận chính và quan trọng dưới đây:
Phần chân đế: đây là phần quan trọng nhất của đèn cúng giúp nâng đỡ và giữ vững cho phần thân và mái đèn. Do đó, chân đế là phần không thể thiếu khi thi công, lắp đặt đèn thờ đá. Kích thước của chân đế cũng tùy thuộc vào từng mẫu đèn đá và nhu cầu của gia chủ.
Phần thân đèn: kiểu dáng của thân đèn được thiết kế hình trụ đứng với nhiều họa tiết, hoa văn đa dạng, khác nhau tạo nên vẻ đẹp sang trọng và tinh tế cho đèn thờ đá. Thân đèn được gắn kết trực tiếp với phần thân bóng đèn, là phần thắp sáng cho cây đèn.
Phần mái đèn: mái đèn được thiết kế đa dạng nhiều kiểu dáng khác nhau như loại 2 mái, 3 mái. Phần mái là phần ở phía trên cùng của đèn và là phần che mưa gió, tác động của thời tiết và đảm bảo giữ cho thân và chân đèn được lâu bền và đẹp theo thời gian.
Báo giá đèn đá trang trí sân vườn, đèn thờ mới nhất 2022
Khi chọn mua đèn trang trí sân vườn hay đèn thờ cần lưu ý một số yếu tố như kích thước, chất liệu đá, kiểu dáng, địa chỉ cung cấp,… để đảm bảo có được giá thành tốt nhất và một cây đèn đá ưng ý và đẹp nhất cho khuôn viên của mình.
Giá thành của đèn đá sân vườn, đèn thờ thường không cố định mà sẽ dao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Do đó, khách hàng cần tìm đến những cơ sở, địa chỉ thi công, lắp đặt đèn đá uy tín và chuyên nghiệp để được tư vấn và báo giá tốt nhất.
Cơ sở đá Mỹ Nghệ Tín Khôi là cơ sở cung cấp nhiều mẫu mã đèn đá trang trí sân vườn, đèn thờ cúng mới nhất, đẹp nhất với mức giá tốt nhất. Khách hàng khi đến với đá Mỹ Nghệ Tín Khôi có thể an tâm về giá và chất lượng. Bởi chúng tôi không chỉ có đội ngũ tay nghề với nhiều năm kinh nghiệm mà còn có nguồn chất liệu đá làm đèn thờ, đèn trang trí bền và chất lượng đảm bảo cho khách hàng. Hãy liên hệ cơ sở đá Mỹ Nghệ Tín Khôi qua số hotline: 0799456152 để được đội ngũ tư vấn và hỗ trợ nhiệt tình của chúng tôi báo giá chi tiết và cụ thể nhất cho các mẫu đèn đá đẹp nhất 2022.
Cặp chân đèn bằng đá
Địa chỉ bán mẫu đèn đá đẹp, đèn thờ, đèn sân vườn giá rẻ
Hiện nay, có rất nhiều địa chỉ, cơ sở trên thị trường cung cấp các mẫu đèn đá đẹp, đèn thờ và đèn sân vườn giá rẻ. Tuy nhiên, khách hàng cần lựa chọn những địa chỉ uy tín, chất lượng và chuyên nghiệp để có được giá thành tốt nhất.
Địa chỉ bán mẫu đèn đẹp
Cơ sở đá Mỹ Nghệ Tín Khôi là địa chỉ thi công, lắp đặt nhiều mẫu đèn đá đẹp nhất cho các khuôn viên sân vườn, nhà thờ họ, chùa, đình, khu lăng mộ,… Chúng tôi không chỉ đảm bảo về chất lượng đá làm đèn tốt mà còn tự hào với giá đèn đá sân vườn, đèn thờ cạnh tranh và ưu đãi nhất thị trường.
Bên cạnh đó, cơ sở đá Mỹ Nghệ Tín Khôi cũng tự hào sở hữu đội ngũ các nghệ nhân làm nghề nhiều năm kinh nghiệm, có chuyên môn cao và thái độ làm việc chuyên nghiệp. Chúng tôi kết hợp giữa nét truyền thống trong việc chế tác, chạm khắc hoa văn với tính hiện đại của máy móc, công nghệ kỹ thuật để cho ra đời nhiều mẫu đèn đá đẹp nhất năm 2022.
Ngoài ra, đá Mỹ Nghệ Tín Khôi còn cung cấp và thi công nhiều sản phẩm, công trình bằng đá tâm linh khác nhau như lăng mộ đá, cổng đá, bậc tam cấp, cây hương đá,…với nhiều kiểu dáng và hoa văn tinh xảo, sang trọng đáp ứng được hầu hết các yêu cầu của khách hàng.
Tổng hợp mẫu đèn thờ đá, đèn đá sân vườn đẹp nhất 2022
Cùng đá Mỹ Tín Khôi tham khảo thêm nhiều mẫu đèn thờ đá, đèn đá sân vườn đẹp nhất năm 2022 dưới đây:
Bài viết trên đây là toàn bộ những thông tin mà Tín Khôi muốn chia sẻ đến bạn đọc về đèn thờ đá, đèn đá sân vườn. Hy vọng rằng, khách hàng sẽ có thêm nhiều kiến thức và lựa chọn cho mình những mẫu đèn đá thờ cúng đẹp nhất, mang lại nhiều thẩm mỹ, tài lộc và phong thủy cho gia đình.
Để mọi công đoạn thi công, lắp đặt đèn thờ đá chính xác, dễ dàng và nhanh chóng nhất, quý khách hàng hãy liên hệ với đá mỹ nghệ Tín Khôi theo thông tin liên lạc dưới đây:
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết CD24 – Chân Đèn Bằng Đá đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Là Ai?
Tượng thích ca mâu ni bằng đá tại cơ sở Tín Khôi
Đức Phật Thích Ca khi còn nhỏ, Thái tử Siddhartha Gautama (sau này là Đức Phật) sinh ra tại vườn Lumbini ở thủ đô Kapilavastu của một vương quốc nhỏ nằm dưới chân dãy Himalaya của Ấn Độ cổ đại.
Nhiều người không biết rằng Đức Phật Thích Ca đang nói đến chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài còn có những tên gọi thông thường khác mà người Việt Nam vẫn quen gọi: Đức Phật, Như Lai Phật Tổ, Như Lai Phật Tổ, Tất Đạt Đa Cồ Đàm,… Trong đó, Như Lai là danh hiệu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Đức Phật Thích Ca chính là Thái tử Tất Đạt Đa – người có xuất thân cao quý nhất trong triều đại. Sinh ra tại vương quốc Thích Ca (Shakya – Ca) ngày nay thuộc Ấn Độ. Ngài nhận ra chân lý của chính mình, thoát khỏi luật sinh tử. Đồng thời, Ngài truyền bá những triết lý đó cho con người trên trái đất để họ thoát khỏi đau khổ.
Những lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni luôn hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc, và dù thời gian có trôi đi nhưng những lời dạy về cuộc sống và giới luật được giảng giải vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.
>>>>Xem Thêm:Tượng Phật Thích Ca
Ý Nghĩa Của Việc Thờ Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch trắng nguyên khối
Thờ tượng phật là một nét đẹp trong văn hóa tín ngưỡng tâm linh của người Việt. Dù thờ bất cứ vị Phật nào thì cũng mang lại những ý nghĩa tốt đẹp cho gia chủ. Phật Thích Ca là người dám từ bỏ ngai vàng, phú quý, giàu sang để đi tìm chân lý của cuộc đời với bao khó khăn, đói khổ và đã giác ngộ, giải thoát bản thân khỏi thế tục, Phật Thích Ca chính là người khai sinh ra Phật giáo. Vì vậy, việc thờ Phật Thích ca thể hiện sự giác ngộ của gia chủ: thành tâm hướng thiện, muốn giải thoát mình khỏi các thói xấu tham sân si ở đời và muốn cầu cho gia đạo luôn được an lành, tâm thanh tịnh.
Giúp Con Người Thức Tỉnh Chân Lý Cuộc Sống
Phật giúp con người sớm thức tỉnh nhận ra chân lý của sự khổ đau, thoát khỏi bể khổ để đến với những điều tốt đẹp nhất. Nhờ đó con người được thức tỉnh, nhận ra những điều chân lý và tránh khỏi cái ác, buồn đau cuộc sống.
Thể Hiện Sự Trân Trọng Quá Khứ
Trong gia đình, các gia chủ thường đặt tượng Phật A Di Đà cạnh đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Phật Di Lặc để thể hiện cho quá khứ, hiện tại và tương lai. Có quá khứ mới có hiện tại và hiện tại sẽ cố gắng cho tương lai. Việc thờ tượng Phật thể hiện sự trân trọng quá khứ và công ơn của thần thánh đã phù hộ độ trì cho con người.
Cầu Mong Sự Bình An Và May Mắn
Phật là hiện thân của những điều tốt đẹp, việc thờ Phật mang thông điệp cầu mong sự phù hộ độ trì của Thần phật cho cuộc sống của con người được bình an và may mắn.
Bên cạnh đó, Phật còn giúp con người tránh được những điều xui, vận hạn trong cuộc sống. Tuy nhiên, nên thờ tượng phật nào trong nhà để mang lại những giá trị phong thủy tốt nhất thì gia chủ cũng cần lưu ý kĩ.
Vị Trí Lập Bàn Thờ Tượng Phật Thích Ca Trong Nhà.
Đối với những nhà rộng, có diện tích thì nên dành riêng một gian để thờ Phật riêng. Những ngôi nhà có thiết kế hiện đại còn xây riêng một tần thượng để thờ Phật Thích Ca. Trường hợp không có gian riêng cũng vẫn có thể thờ tượng Phật ở gian chính ở trên các kệ cao được thiết kế một cách trang trọng. Bàn thợ Phật phải luôn được giữ sạch sẽ, lau chùi thường xuyên.
Mặt tượng Phật nên quay về hướng Đông vì đây là hướng mặt trời mọc mà Đức Phật Thích Ca quay ra để thiền định giác ngộ. Hướng bàn thờ nên đặt theo hướng Tây Bắc vì đây là hướng tượng trưng cho trời: Tây thiên cực lạc. Tuyệt đối nên tránh đặt bàn thờ ở hướng Đông Bắc nhìn về Tây Nam và ngược lại vì đây là hai hướng ngũ qủy có rất nhiều xung khí.
Những Điều Nên Và Không Nên Làm Khi Lập Bàn Thờ Tượng Phật Thích Ca Trong Nhà.
Những Điều Nên Làm:
+ Đặt tượng Phật Thích Ca hướng ra cửa chính.
+ Tốt nhất nên thờ tượng Phật Thích Ca ở gian riêng, trên lầu cao nhất của ngôi nhà hay ở những vị trí tôn kính mà không quá ồn ào hay nhiều người qua lại.
+ Tượng trên bàn thờ nên đặt trên miếng giấy lót đỏ.
+ Bàn thờ và tượng nên lau chùi thường xuyên, khăn chậu phải đảm bảo còn mới. Có thể dùng nước sạch, rượu, nước hoa, nước bưởi để lau chùi.
+ Hàng ngày nên thắp hương sáng tối và phải đảm bảo hương còn mới, đồ cúng phải đảm bảo tươi ngon. Nên để đèn bàn thờ luôn luôn bật sáng để thu hút năng lượng dương.
+ Tượng bị cũ, mờ nên tô vẽ lại. Nếu tượng Phật bị hư hỏng quá mức thì dùng giấy vàng gói lại để ngày 1, 3, 5, 7, 9 đốt dưới nắng tiễn tượng Phật quy vị. Không nên bạ đâu bỏ đó mà mang tội.
Những Điều Không Nên Làm:
+ Không được dùng gỗ hay vật liệu đã sử dụng qua làm bàn thờ Phật vì như vậy là bất kính.
+ Trên bàn thờ không được để các dị vật khác.
+ Tượng Phật rất linh thiêng nên không được cất trong các hộp, tủ hay két sắt vì như vậy giống như bạn đang cố nhốt Phật vậy. Hành động này vừa không giúp phù hộ cho gia đình mà còn làm cho các thành viên dễ bị bệnh đau ốm thường xuyên.
+ Tuyệt đối không được để tượng Phật Thích Ca lung tung trong nhà, kị nhất là những nơi không sạch sẽ ẩm thấp.
+ Dù cho nên đặt bàn thờ ở những hướng tốt nhưng không vì thể mà đặt bàn thờ ở những vị trí ồn ào, nhiều người qua lại sẽ làm mất đi sự thanh tịnh nơi thờ cúng.
+ Không đặt tượng Phật Thích Ca ở những nơi riêng tư như phòng ăn, phòng ngủ hoặc hướng mặt về những nơi thiếu trang nghiêm như phòng tắm, bếp hay nhà vệ sinh, dưới xà nhà hay gầm cầu thang…
+ Không nên đặt giường ngủ phía sau bàn thờ Phật Thích Ca vì ngủ sẽ không an giấc và còn hay gặp mộng mị
Một số mẫu tượng Thích Ca mâu ni tại cơ sở điêu khắc Tín Khôi:
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch
Tượng Phật Thích Ca bằng đá cà rốt
Mua Tượng Chân Dung Bằng Đá Ở Đâu Chất Lượng, Uy Tín?
Tượng Thích Ca Mâu Ni Bằng Đá Ấn Độ Nhập Khẩu
Cơ sở khắc đá Tín Khôi chuyên thiết kế và thi công sản phẩm tượng đá, trong đó có tượng Thích Ca mâu ni từ đá tự nhiên, nguyên khối. Tượng Thích Ca mâu ni bằng đá được các nghệ nhân của chúng tôi chế tác rất đa dạng, phong phú về hình ảnh, mẫu mã, kích thước……đảm bảo đáp ứng mọi yêu cầu cũng như tiêu chí của khách hàng. Ngoài sản phẩm tượng Thích Ca mâu ni được nhiều khách hàng tin tưởng và lựa chọn, cơ sở đá Tín Khôi còn nổi trội với các dòng sản phẩm khác như : Tượng Phật bằng đá, tượng đá nghệ thuật, tượng linh vật bằng đá……
Kế thừa và phát huy truyền thống làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước Ngũ Hành Sơn, cơ sở đá mỹ nghệ Tín Khôi là một trong những cơ sở tiêu biểu, nổi bật bậc nhất làng nghề. Được sự công nhận và tin yêu của nhiều khách hàng khắp trên cả nước. Chúng tôi tự tin sẽ mang tới những bức tượng Thích Ca mâu ni tốt nhất, đẹp nhất cho khách hàng.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni – TC108 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Nguồn Gốc Của Danh Xưng Quan Âm
Theo 1 truyền thuyết Phật Giáo, những ai khi đã tu thành chánh quả sẽ đạt được tới cảnh giới ngũ giác đồng quy, tức 5 giác quan hòa làm một, giúp họ có thể dùng tai để “thấy”, mắt để “nghe” và lưỡi để “ngửi”. Khi đó, họ sẽ được trao cho danh xưng là Quan âm, Quan Thế m hay Quán Thế âm.
Chính vì thế, Quan âm Bồ Tát mang hình ảnh của 1 vị Đại sĩ luôn có thể “nhìn”, “cảm” và “nghe” được những tiếng ai oán, khổ đau thầm kín nhất của chúng sinh, từ đó giúp họ tai qua nạn khỏi, vượt ngàn thử thách bằng sự thần thông, quảng đại của mình.
Hình Tượng Phật Quan Âm
Tượng Quan Thế Âm bồ tát bằng đá
Như đã nói ở trên, Phật Quan âm là biểu tượng của pháp lực từ bi, giác ngộ – được cho là sức mạnh tinh thần cao nhất đối với Phật Giáo. Bên cạnh đó, Phật Giáo cũng không phân biệt nam nữ, vì để giúp cho người khổ nạn được cứu trợ cảm thấy gần gũi, tin tưởng hơn, tạo hình Quan âm sẽ thay đổi linh hoạt, có khi là nam hoặc cũng có khi là nữ.
>>>>Xem Thêm:Tượng phật Quan Âm
Ngoài ra, vì đối tượng được Quan âm phổ độ thường là những phụ nữ, trẻ nhỏ yếu đuối nên các Phật Tử thường so sánh ngài như người mẹ hiền từ và khắc họa bằng hình ảnh 1 người phụ nữ có gương mặt
hòa ái. Các tạo hình hay thấy của Quan âm là:
Quan âm Tống Tử: Hình ảnh Quan Thế âm đang bế 1 em bé trên tay, mang ý nghĩa cầu con cũng như có thể sinh con được như mong ước.
Phật Bà Nghìn Mắt Nghìn Tay: Biểu tượng cho sự nhìn thấu lẽ đời, từ đó phổ độ, phù trợ cho chúng sinh trên khắp thế giới.
Các tạo hình thường thấy khác: Quan âm cứu nạn trên biển, Quan âm cưỡi mây, Quan âm cưỡi rồng,…
Quan Thế âm ngồi trên đài sen, tay trái cầm cành liễu, tay phải cầm bình nước Cam Lồ: Dùng sự tinh khiết của tự nhiên, đất trời mà giác ngộ cho chúng sinh.
Một số hình ảnh tượng phật bà Quan Thế Âm bồ tát bằng đá tại cơ sở Tín Khôi:
Tượng Quan Thế Âm bồ tát bằng đá
Tượng Quan Thế Âm bồ tát bằng đá
Đang điêu khắc Tượng Quan Thế Âm bồ tát bằng đá tại cơ sở Tín Khôi
Ý Nghĩa Tượng Phật Quan Âm Trong Phong Thủy
Thanh Tịnh Tâm Hồn:
Dù Đứng Hay Ngồi Thì Hình Tượng Phật Tổ Như Lai Và Phật Quan M Đều Có Thể Khởi Được Niệm Lành, Gạt Bỏ Những Si Mê, Xấu Ác Trong Lòng Mỗi Người, Giúp Cho Tâm Bản Của Chúng Sinh Khi Chiêm Ngưỡng Dung Nhan Đức Phật Sẽ Tìm Thấy Sự An Lạc, Hạnh Phúc, Đồng Thời Còn Giúp Ta Nuôi Lớn Được Tâm Tính Từ Bi, Vị Tha Và Lương Thiện.
Mang Lại Sức Khỏe, May Mắn:
Bởi Mang Gương Mặt Nhân Hậu, Hiền Từ, Giúp Đem Đến Nguồn Năng Lượng Lạc Quan, Tích Cực Đến Cho Gia Chủ Nên Tượng Phật Quan Âm Bồ Tát Có Thể Sẽ Khiến Cho Công Việc Của Các Thành Viên Trong Gia Đình Trở Nên Suôn Sẻ Cũng Như Sức Khỏe Tinh Thần Và Sức Khỏe Thể Xác Sẽ Được Cải Thiện Tốt Hơn.
Kích Hoạt Năng Lượng Tích Cực Cho Không Gian:
Tượng Phật Quan âm giúp kích hoạt năng lượng tích cực cho không gian
Không Chỉ Mang Các Ý Nghĩ Tinh Thần Như Trên, Việc Thờ Phật Quan Âm Còn Được Xem Như Một Nét Đẹp Văn Hóa Truyền Thống Trong Đời Sống Tâm Linh Của Người Dân Tộc Việt. Đặc Biệt, Các Bức Tượng Phật Được Điêu Khắc Tinh Xảo Còn Tạo Nên Cho Ngôi Nhà Của Bạn Một Không Gian Xinh Đẹp, An Yên Và Thanh Bình.
Cách Bài Trí Tượng Phật Quan Âm
Tượng Quan Thế Âm bồ tát bằng đá cẩm thạch
Đối với phong thủy, vị trí đặt tượng Phật Quan âm đặc biệt quan trọng vì có thể ảnh hưởng đến sự may mắn, bình an và vận khí tài lộc của gia chủ. Chính vì thế, ngoài việc phải chọn nơi mua tượng Phật Bà Quan âm uy tín để có thể về thẳng nhà sau khi mua, bạn nên lưu ý một số điều sau đây:
Trước khi thỉnh Phật Bà về, bạn nên chuẩn bị nơi đặt tượng kỹ càng, cần bài trí lư hương, chén nước, hoa quả cúng và bình hoa sao cho thật trang nghiêm.
Nên đặt tượng ở những nơi trang trọng như phòng thờ riêng hay các vị trí trên cao, ở giữa nhà và hướng ra cửa chính để tỏ lòng thành kính đối với tấm lòng từ bi của Phật Quan m.
Không nên đặt tượng Quan Thế âm cùng các tượng Đức Phật khác để tránh làm giảm nghĩa phong thủy của tượng Phật.
Tuyệt đối không đặt tượng Phật Quan âm cùng những tượng thần khác, vì Quan Thế âm Bồ Tát vốn là 1 vị Phật ăn chay nên việc cúng đồ mặn chung với nhiều tượng thần sẽ không tạo được sự trang trọng.
Đồng thời, tối kỵ các hướng đặt tượng Quan âm quay vào những nơi riêng tư như phòng vệ sinh, bàn ăn hay phòng ngủ vì sẽ không được trang nghiêm, ảnh hưởng xấu đến vận khí của gia đình.
Trên đây là ý nghĩa của tượng Phật Quan âm đối với phong thủy. Hy vọng với bài viết này của CƠ SỞ ĐIÊU KHẮC ĐÁ TÍN KHÔI, bạn đã có thêm nhiều thông tin bổ ích để giúp cho cuộc sống tinh thần của mỗi thành viên trong gia đình mình thêm thanh tịnh, bình an và sáng suốt nhé!
Mua Tượng Phật QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT Bằng Đá Ở Đâu Chất Lượng, Uy Tín?
Cơ sở khắc đá Tín Khôi chuyên thiết kế và thi công sản phẩm tượng đá, trong đó có tượng phật QUAN THẾ ÂM làm từ đá tự nhiên, nguyên khối. Tượng chân dung bằng đá được các nghệ nhân của chúng tôi chế tác rất đa dạng, phong phú về hình ảnh, mẫu mã, kích thước……đảm bảo đáp ứng mọi yêu cầu cũng như tiêu chí của khách hàng. Ngoài sản phẩm tượng phật QUAN THẾ ÂM được nhiều khách hàng tin tưởng và lựa chọn, cơ sở đá Tín Khôi còn nổi trội với các dòng sản phẩm khác như : Tượng Phật bằng đá, tượng đá nghệ thuật, tượng linh vật bằng đá……
Kế thừa và phát huy truyền thống làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước Ngũ Hành Sơn, cơ sở đá mỹ nghệ Tín Khôi là một trong những cơ sở tiêu biểu, nổi bật bậc nhất làng nghề. Được sự công nhận và tin yêu của nhiều khách hàng khắp trên cả nước. Chúng tôi tự tin sẽ mang tới những bức tượng phật QUAN ÂM tốt nhất, đẹp nhất cho khách hàng.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng quan thế âm bồ tát đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiết .
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát – BT164 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Am thờ đá là gì?
Am thờ đá ngoài trời còn được gọi là cây hương hoặc bàn thờ thiên ngoài trời, đây là vật phẩm thờ cúng quen thuộc của người Việt.
Am thờ bằng đá có hình dáng là một trụ đá với chiều cao khoảng 107 cm hoặc 127 cm. Trên trụ của am thờ đá được thiết kế một bàn thờ hình vuông, có vách đằng sau và ở 2 bên. Trên mặt bàn thờ đặt bát hương, lọ hoa, đĩa trái cây, hoa quả, trà nước….
Am thờ đá ngoài trời
Am thờ đá ngoài trời được chế tác, thiết kế từ đá xanh tự nhiên, họa tiết hoa văn sắc nét, tinh xảo. Am thờ đá làm từ đá được nhập về từ vùng có đá chất lượng tốt như: Nghệ An, Thanh Hóa…nên có khả năng chịu mài mòn tốt theo thời gian, tính thẩm mỹ cao.
Ý nghĩa của am thờ đá ngoài trời
Am thờ bằng đá ngoài trời còn được cây hương, bàn thờ thiên ngoài trời, đây là nơi thờ cúng thần linh quen thuộc trong phong tục người Việt. Chúng ta thường bắt gặp am thờ đá được đặt ngoài trời, trước cửa các công trình tâm linh như khu lăng mộ đá, đền chùa… với các mục đích khác nhau.
Theo đời sống tâm linh người Việt, am thờ bằng đá là không gian thờ cúng, nơi để con cháu thể hiện thành kính, biết ơn của mình đối với những người đã khuất. Mỗi vùng miền khác nhau sẽ lắp đặt am thờ đá với các mục đích khác nhau nhưng chủ yếu là để thờ thần linh, thổ thần, thổ địa,…
Nhằm phục vụ không gian thờ cúng ngoài trời, am thờ bằng đá được chế tác bằng chất liệu đá tự nhiên nguyên khối nên sử dụng lâu dài và không mất chi phí bảo dưỡng hoặc xây mới. Những mẫu am thờ đá có độ bền cao lên đến hàng chục năm mà không bị bào mòn bởi thời tiết.
Cách đặt bàn thờ thiên ngoài trời chuẩn mang lại tài lộc.
Thông thường vị trí đặt bàn thờ thiên chuẩn nhất là ở ngoài trời nơi cao ráo sạch sẽ không bị che khuất tầm nhìn.Tốt nhất là đặt bàn thờ thiên cây hương đá trong sân vườn trước cửa nhà đối với nhà ở khu vực nông thôn và bán lộ thiên như ở ban công đối với các nhà ở thuộc thành phố hoặc khu đô thị.
Hướng đặt bàn thờ thiên bằng đá nên chọn hướng cát sẽ sinh phúc khí mang lại tài lộc cho gia chủ.Tùy theo diện tích và vị trí đặt cây hương đá thờ thiên của mỗi gia đình mà chọn hướng đặt cho phù hợp.
Tránh đặt bàn thờ thiên ngoài trời nơi ẩm thấp khuất tầm nhìn,nơi có vũng nước tù đọng hoặc gần nơi để rác thải, khu chăn nuôi gia súc gia cầm.
Am thờ đá ngoài trời
Văn cúng bàn thiên ngoài trời.
Nam mô a di đà phật(3 lần, 1 lễ)
Con lạy chín phương trời, mười phương chư phật, chư phật mười phương.
Con lạy ngài Hoàng thiên Hậu thổ chư vị tôn Thần.
Con kính lạy các ngài thần linh, thổ công, táo quân, thổ thần long mạch, tài thần chúa đất chư vị thiện thần cai quản xứ này.
Con cúi lạy ngài bản gia tiền chủ ngụ trong nhà này.
Hôm nay là ngày ……..tháng……..năm………
Tín chủ con là : …………………………………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Địa chỉ : ………………………………………………………………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………………………………………………….
Chúng con thành tâm sửa biện, hương hoa, đăng trà quả thực, lễ vật cúng dâng, bày lên trước án.
Chúng con thành tâm kính mời Ngài hoàng thiên hậu thổ chư vị tôn thần.các ngài thần linh, thổ công, táo quân, thổ thần long mạch, tài thần chúa đất chư vị thiện thần cai quản xứ này, ngài bản gia tiền chủ ngụ trong nhà này
Cúi xin các ngài, thương xót tín chủ giáng lâm trước án chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.Phù trì tín chủ chúng con cùng toàn thể gia đình được: Ba chướng tiêu trừ, thiện căn tăng trưởng, đạo tâm vững tiến, gia quyến an vui, bốn mùa không chút tai ương, quanh năm thêm lành cát khánh, gia đình hưng vượng, con cháu vui hòa, vạn tội băng tiêu.Nguyện Xuân đa cát khánh, hạ bảo bình an, thu tống tam tai, đông nghinh bách phúc, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.Giãi tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
Nam mô a di đà phật (3 lần, 3 lễ)
Địa chỉ bán bàn thờ thiên ngoài trời đẹp uy tín chất lương chuẩn phong thủy
Đá mỹ nghệ TÍN KHÔI tự hào là cơ sở chuyên thiết kế, thi công bán và lắp đặt các mẫu bàn thờ thiên bằng đá cây hương đá thờ thiên ngoài trời có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá thành hợp lý nhất.
Am thờ đá ngoài trời bằng đá trắng trong xanh
Chúng tôi có đội ngũ thợ lành nghề được thừa hưởng kinh nghiêm và đào tạo bài bản về chế tác đá nghệ thuật.Mỗi sản phẩm chúng tôi làm ra đều có nét đẹp riêng mang rất nhiều tâm huyết của người thợ
Cơ sở của chúng tôi cũng lắp đặt một số máy móc hiện đại hỗ trợ trong quá trình chế tác.Đảm bảo các sản phẩm đưa ra thị trường tới tay người tiêu dùng có chất lượng tốt nhất.
Chất lượng đá trước khi đưa vào gia công được chúng tôi kiểm tra, tuyển chọn kỹ lưỡng từ các khu khai thác đá tự nhiên lớn.
Bên cạnh bàn thờ thiên bằng đá, chúng tôi còn cung cấp thêm một số sản phẩm khác về đá chất lượng tốt giá thành hợp lý như : mộ đá, lăng thờ đá, khu lăng mộ đá, cuốn thư đá, chiếu rồng đá, lan can đá, bát hương đá, cổng đá, inh vật đá, bàn ghế đá, lư hương đá, chiếu rồng đá, đá lát nền, đá lát bậc thềm, rồng đá bậc thềm, cột đá ……
Để được báo giá chính xác nhất cho từng mẫu sản phẩm, quý khách hàng vui lòng liên hệ
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết AT02 – Am Thờ Đá Ngoài Trời đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Ý nghĩa của tượng Phật Di Lặc theo phong thủy:
Tượng Phật Di Lặc bằng đá cẩm thạch nguyên khối tự nhiên
Phật Di Lặc mang một ý nghĩa vô cùng to lớn mà nhiều người vẫn còn chưa biết. Sau đây Phan Thiên xin giới thiệu một vài ý nghĩa nổi bật nhất của Tượng:
– VUI TƯƠI, MAY MẮN: Tượng Phật Di Lặc với nụ cười tươi tắn, vui vẻ, sảng khoái luôn mang đến cho Gia Chủ cảm giác phấn chấn, vui vẻ, lạc quan, yêu đời. Trong tất cả các bức tượng Phật, có lẽ không có ai cười tươi như Phật Di Lặc, đó chính là nét đặc trưng và độc đáo nhất của Tượng. Cứ vui lên đi, mọi chyện rồi sẽ tốt đẹp, vui vẻ mà sống mà hưởng thụ rồi may mắn sẽ đến phải không nào?
Theo truyền thuyết thì niềm vui lớn nhất của vị Bồ Tát này là hóa giải những giận dữ, buồn phiền, áp lực hay căng thẳng của con người thành sự vui vẻ, hạnh phúc. Ngài luôn gieo rắc niềm vui cho những nơi mà mình đi qua.
Tượng phật Di Lặc ngũ phúc bằng đá cẩm thạch trắng
– SỨC KHOẺ: Chắc chắn rồi! Phật Di Lặc luôn được điêu khắc với thân hình mập mạp, to khoẻ, với cái bụng vô cùng bự lòi luôn cả rốn. Mong muốn cho tất cả gia đình đều có một sức khoẻ tốt, một thân hình rắn chắc và vạm vỡ. Bởi có sức khoẻ thì mới có tất cả.
– TÀI LỘC: Tượng Phật Di Lặc kéo túi tiền hoặc trên tay cầm đồng tiền, chân giẫm lên thỏi tiền… với ý nghĩa mang đến nhiều tài lộc trong công việc, tiền tài cũng như đường công danh. Chưng tượng Phật này trong nhà, nơi làm việc sẽ giúp chi công việc kinh doanh thịnh vượng, tiền vào như nước , muốn gì được nấy, làm ăn hưng phát.
. Hình ảnh Phật Di Lặc ngồi bên bao tiền bằng đá ấn độ
– BÌNH AN, GIA ĐÌNH ẤM NO HẠNH PHÚC: Phật Di Lặc còn giúp cho gia chủ có một cuộc sống an nhiên, vui vẻ, hạnh phúc. Con đàn cháu đống, con cái khoẻ mạnh, yêu thương nhau. Gia đình luôn rộn rã tiếng cười.
Tượng phật Di Lặc Ngũ Phúc bằng đá cẩm thạch nguyên khối
Một vài ý nghĩa đặc trưng riêng của mỗi tượng Di Lặc:
– Tượng Phật Di Lặc ôm phiến đá tượng trưng cho niềm vui,phấn khởi,chan hòa,sự hòa thuận và may mắn.
– Tượng Phật dưới cây tùng mang ý nghĩa sâu sắc về giữ sự bình an,xua đuổi ma tà,sức khỏe và tài lộc cho gia chủ.
– Tượng Phật Di Lặc cùng với đám trẻ nô đùa mang ý nghĩa của sự vui tươi,con cháu đùm đề,gia đình ấm no,hạnh phúc.
– Tượng Phật Di Lặc nâng thỏi vàng, kéo bao tiền tượng trưng cho tài lộc, làm ăn phát đạt.
MỘT VÀI HÌNH ẢNH VỀ TƯỢNG PHẬT DI LẶC BẰNG ĐÁ TẠI Tín Khôi:
Nếu bạn đang cần mua một bức tượng Di Lặc đẹp bằng đá tự nhiên thì hãy ghé đến Cơ Sở Điêu Khắc Tượng Đá Tự Nhiên Tín Khôi. Tại đây, các nghệ nhân trong nghề điêu khắc đồ đá với kinh nghiệm lâu năm đã dựa trên những điểm nổi bật và riêng biệt của Phật Di Lặc để điêu khắc ra những pho tượng Phật một cách tỉ mỉ, kĩ càng và có hồn nhất.
Cách đặt và vị trí phù hợp đặt tượng Phật Di Lặc:
Tượng Phật Di Lặc nên được đặt ở đâu? Cách đặt tượng Phật như thế nào cho phù hợp và đúng cách? Câu hỏi mà tất cả mọi người đều quan tâm đến, cách đặt tượng Phật Di Lặc như thế nào cho đúng và mang nhiều tài lộc may mắn đến cho gia đình, nơi làm việc. Tín Khôi chúng tôi mời các bạn cùng tìm hiểu các cách đặt tượng phật di lặc theo đúng phong thuỷ dưới đây:
– Đặt tại các nơi kinh doanh, làm việc để Phật Di Lặc mang tới tài lộc,công việc hiệu quả và đạt được nhiều thành công.
– Trưng bày tượng ở phòng khách lớn hay đối diện cửa chính hướng thẳng ra ngoài, ngự trên bàn thờ thần tài – ông địa. Phật sẽ phù hộ cho các thành viên trong gia đình hòa thuận, đoàn viên, gia đình được an lạc, thái hòa.
–Không đặt tượng Phật hướng về phía nhà bếp hoặc nhà vệ sinh vì không thể hiện sự tôn kính, cả nhà để ý để không đặt nhầm các vị trí không tốt khi đặt tượng Phật Di Lặc trong nhà mình nhé.
-Theo phong thủy, người ta thường đặt tượng Phật trên cao cách mặt đất 1 mét và hướng ra phía cửa để gắn kết tình cảm hàng xóm láng giềng, tài lộc vào nhà và đặc biệt là khách đến thăm nhà sẽ có nhiều thiện cảm, vui vẻ và tình cảm với gia đình hơn.
– Đặt tượng Phật tại nơi làm việc hay trên bàn học sẽ giúp chúng ta thuận lợi về đường công danh và học tập.Với nụ cười hiền hậu và tươi vui của Phật giúp chúng ta cảm thấy bớt căng thẳng và mệt mỏi, bớt đi sự âu lo muộn phiền.
– Như tất cả chúng ta đều thấy, trên tất cả các xe hầu hết mọi người đều trưng tượng Phật Di Lặc trên xe để giúp tài xế lái xe của mình một cách bình an, tránh tai nạn.
Tượng Phật Di Lặc đá ngọc hoàng long
Cách làm nên tượng Phật Di Lặc tại Cơ Sở điêu khắc tượng đá tự nhiên Tín Khôi:
Cơ sở Điêu Khắc Đá Mỹ Nghệ Tín Khôi nằm ngay trong Làng nghề Non Nước Đà Nẵng, một trong những làng nghề truyền thống phát triển lâu đời nhất tại Đà Nẵng. Các sản phẩm của chúng tôi được làm ra dưới bàn tay lành nghề của các Thợ Đá nhiều năm kinh nghiệm và gắn bó với nghề. Chính vì điều này, đã tạo nên sự khác biệt và độc đáo cho các sản phẩm nơi đây, khiến bạn bè trong và ngoài nước vô cùng yêu mến và ngưỡng mộ.
Đến với Đá Mỹ Nghệ Tín Khôi, quý khách hàng yên tâm về chất lượng đá cũng như bàn tay điêu khắc của các nghệ nhân chúng tôi. Tự hào là một cơ sở chuyên về điêu khắc tượng Phật tại Làng Đá Mỹ Nghệ Non Nước Đà Nẵng, một trong những làng nghề có hơn 400 năm tuổi về điêu khắc tượng đá. Phan Thiên luôn tự hào về chất lượng sản phẩm, mẫu mã tại cơ sở điêu khắc của chính mình. Giá cả hợp lý, phải chăng,có nhiều chế độ ưu đãi cho khách hàng.
Các sản phẩm của chúng tôi cam kết:
– 100% đá nguyên khối và hoàn toàn tự nhiên;
– Tuyệt đối Không phải là đá bộ, đá rời ghép thành nhiều mảnh, dễ rơi rớt;
– Sản phẩm được chăm chút tỉ mỉ, đẹp mắt dưới bàn tay của Nghệ Nhân làng Đá Non Nước Đà Nẵng;
– Sản phẩm bền đẹp theo thời gian;
– Vận chuyển và lắp ráp trên Toàn Quốc;
– Chi phí hợp lý, phải chăng;
– Hoàn tiền 100% nếu sản phẩm bị sứt mẻ, không phải tự nhiên;
– Thời gian làm ra sản phẩm nhanh chóng;
Đặc biệt: ĐIÊU KHẮC THEO THIẾT KẾ VÀ YÊU CẦU CỦA KHÁCH HÀNG!
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết DL66 – Tượng Phật Di Lặc đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Nguồn Gốc Của Danh Xưng Quan Âm
Theo 1 truyền thuyết Phật Giáo, những ai khi đã tu thành chánh quả sẽ đạt được tới cảnh giới ngũ giác đồng quy, tức 5 giác quan hòa làm một, giúp họ có thể dùng tai để “thấy”, mắt để “nghe” và lưỡi để “ngửi”. Khi đó, họ sẽ được trao cho danh xưng là Quan âm, Quan Thế m hay Quán Thế âm.
Chính vì thế, Quan âm Bồ Tát mang hình ảnh của 1 vị Đại sĩ luôn có thể “nhìn”, “cảm” và “nghe” được những tiếng ai oán, khổ đau thầm kín nhất của chúng sinh, từ đó giúp họ tai qua nạn khỏi, vượt ngàn thử thách bằng sự thần thông, quảng đại của mình.
Hình Tượng Phật Quan Âm
Tượng Quan Thế Âm bồ tát bằng đá
Như đã nói ở trên, Phật Quan âm là biểu tượng của pháp lực từ bi, giác ngộ – được cho là sức mạnh tinh thần cao nhất đối với Phật Giáo. Bên cạnh đó, Phật Giáo cũng không phân biệt nam nữ, vì để giúp cho người khổ nạn được cứu trợ cảm thấy gần gũi, tin tưởng hơn, tạo hình Quan âm sẽ thay đổi linh hoạt, có khi là nam hoặc cũng có khi là nữ.
>>>>Xem Thêm:Tượng phật Quan Âm
Ngoài ra, vì đối tượng được Quan âm phổ độ thường là những phụ nữ, trẻ nhỏ yếu đuối nên các Phật Tử thường so sánh ngài như người mẹ hiền từ và khắc họa bằng hình ảnh 1 người phụ nữ có gương mặt
hòa ái. Các tạo hình hay thấy của Quan âm là:
Quan âm Tống Tử: Hình ảnh Quan Thế âm đang bế 1 em bé trên tay, mang ý nghĩa cầu con cũng như có thể sinh con được như mong ước.
Phật Bà Nghìn Mắt Nghìn Tay: Biểu tượng cho sự nhìn thấu lẽ đời, từ đó phổ độ, phù trợ cho chúng sinh trên khắp thế giới.
Các tạo hình thường thấy khác: Quan âm cứu nạn trên biển, Quan âm cưỡi mây, Quan âm cưỡi rồng,…
Quan Thế âm ngồi trên đài sen, tay trái cầm cành liễu, tay phải cầm bình nước Cam Lồ: Dùng sự tinh khiết của tự nhiên, đất trời mà giác ngộ cho chúng sinh.
Một số hình ảnh tượng phật bà Quan Thế Âm bồ tát bằng đá tại cơ sở Tín Khôi:
Tượng Quan Thế Âm bồ tát bằng đá
Tượng Quan Thế Âm bồ tát bằng đá
Đang điêu khắc Tượng Quan Thế Âm bồ tát bằng đá tại cơ sở Tín Khôi
Ý Nghĩa Tượng Phật Quan Âm Trong Phong Thủy
Thanh Tịnh Tâm Hồn:
Dù Đứng Hay Ngồi Thì Hình Tượng Phật Tổ Như Lai Và Phật Quan M Đều Có Thể Khởi Được Niệm Lành, Gạt Bỏ Những Si Mê, Xấu Ác Trong Lòng Mỗi Người, Giúp Cho Tâm Bản Của Chúng Sinh Khi Chiêm Ngưỡng Dung Nhan Đức Phật Sẽ Tìm Thấy Sự An Lạc, Hạnh Phúc, Đồng Thời Còn Giúp Ta Nuôi Lớn Được Tâm Tính Từ Bi, Vị Tha Và Lương Thiện.
Mang Lại Sức Khỏe, May Mắn:
Bởi Mang Gương Mặt Nhân Hậu, Hiền Từ, Giúp Đem Đến Nguồn Năng Lượng Lạc Quan, Tích Cực Đến Cho Gia Chủ Nên Tượng Phật Quan Âm Bồ Tát Có Thể Sẽ Khiến Cho Công Việc Của Các Thành Viên Trong Gia Đình Trở Nên Suôn Sẻ Cũng Như Sức Khỏe Tinh Thần Và Sức Khỏe Thể Xác Sẽ Được Cải Thiện Tốt Hơn.
Kích Hoạt Năng Lượng Tích Cực Cho Không Gian:
Tượng Phật Quan âm giúp kích hoạt năng lượng tích cực cho không gian
Không Chỉ Mang Các Ý Nghĩ Tinh Thần Như Trên, Việc Thờ Phật Quan Âm Còn Được Xem Như Một Nét Đẹp Văn Hóa Truyền Thống Trong Đời Sống Tâm Linh Của Người Dân Tộc Việt. Đặc Biệt, Các Bức Tượng Phật Được Điêu Khắc Tinh Xảo Còn Tạo Nên Cho Ngôi Nhà Của Bạn Một Không Gian Xinh Đẹp, An Yên Và Thanh Bình.
Cách Bài Trí Tượng Phật Quan Âm
Tượng Quan Thế Âm bồ tát bằng đá cẩm thạch
Đối với phong thủy, vị trí đặt tượng Phật Quan âm đặc biệt quan trọng vì có thể ảnh hưởng đến sự may mắn, bình an và vận khí tài lộc của gia chủ. Chính vì thế, ngoài việc phải chọn nơi mua tượng Phật Bà Quan âm uy tín để có thể về thẳng nhà sau khi mua, bạn nên lưu ý một số điều sau đây:
Trước khi thỉnh Phật Bà về, bạn nên chuẩn bị nơi đặt tượng kỹ càng, cần bài trí lư hương, chén nước, hoa quả cúng và bình hoa sao cho thật trang nghiêm.
Nên đặt tượng ở những nơi trang trọng như phòng thờ riêng hay các vị trí trên cao, ở giữa nhà và hướng ra cửa chính để tỏ lòng thành kính đối với tấm lòng từ bi của Phật Quan m.
Không nên đặt tượng Quan Thế âm cùng các tượng Đức Phật khác để tránh làm giảm nghĩa phong thủy của tượng Phật.
Tuyệt đối không đặt tượng Phật Quan âm cùng những tượng thần khác, vì Quan Thế âm Bồ Tát vốn là 1 vị Phật ăn chay nên việc cúng đồ mặn chung với nhiều tượng thần sẽ không tạo được sự trang trọng.
Đồng thời, tối kỵ các hướng đặt tượng Quan âm quay vào những nơi riêng tư như phòng vệ sinh, bàn ăn hay phòng ngủ vì sẽ không được trang nghiêm, ảnh hưởng xấu đến vận khí của gia đình.
Trên đây là ý nghĩa của tượng Phật Quan âm đối với phong thủy. Hy vọng với bài viết này của CƠ SỞ ĐIÊU KHẮC ĐÁ TÍN KHÔI, bạn đã có thêm nhiều thông tin bổ ích để giúp cho cuộc sống tinh thần của mỗi thành viên trong gia đình mình thêm thanh tịnh, bình an và sáng suốt nhé!
Mua Tượng Phật QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT Bằng Đá Ở Đâu Chất Lượng, Uy Tín?
Cơ sở khắc đá Tín Khôi chuyên thiết kế và thi công sản phẩm tượng đá, trong đó có tượng phật QUAN THẾ ÂM làm từ đá tự nhiên, nguyên khối. Tượng chân dung bằng đá được các nghệ nhân của chúng tôi chế tác rất đa dạng, phong phú về hình ảnh, mẫu mã, kích thước……đảm bảo đáp ứng mọi yêu cầu cũng như tiêu chí của khách hàng. Ngoài sản phẩm tượng phật QUAN THẾ ÂM được nhiều khách hàng tin tưởng và lựa chọn, cơ sở đá Tín Khôi còn nổi trội với các dòng sản phẩm khác như : Tượng Phật bằng đá, tượng đá nghệ thuật, tượng linh vật bằng đá……
Kế thừa và phát huy truyền thống làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước Ngũ Hành Sơn, cơ sở đá mỹ nghệ Tín Khôi là một trong những cơ sở tiêu biểu, nổi bật bậc nhất làng nghề. Được sự công nhận và tin yêu của nhiều khách hàng khắp trên cả nước. Chúng tôi tự tin sẽ mang tới những bức tượng phật QUAN ÂM tốt nhất, đẹp nhất cho khách hàng.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng quan thế âm bồ tát đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiết .
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát – BT162 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Là Ai?
Tượng thích ca mâu ni bằng đá tại cơ sở Tín Khôi
Đức Phật Thích Ca khi còn nhỏ, Thái tử Siddhartha Gautama (sau này là Đức Phật) sinh ra tại vườn Lumbini ở thủ đô Kapilavastu của một vương quốc nhỏ nằm dưới chân dãy Himalaya của Ấn Độ cổ đại.
Nhiều người không biết rằng Đức Phật Thích Ca đang nói đến chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài còn có những tên gọi thông thường khác mà người Việt Nam vẫn quen gọi: Đức Phật, Như Lai Phật Tổ, Như Lai Phật Tổ, Tất Đạt Đa Cồ Đàm,… Trong đó, Như Lai là danh hiệu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Đức Phật Thích Ca chính là Thái tử Tất Đạt Đa – người có xuất thân cao quý nhất trong triều đại. Sinh ra tại vương quốc Thích Ca (Shakya – Ca) ngày nay thuộc Ấn Độ. Ngài nhận ra chân lý của chính mình, thoát khỏi luật sinh tử. Đồng thời, Ngài truyền bá những triết lý đó cho con người trên trái đất để họ thoát khỏi đau khổ.
Những lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni luôn hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc, và dù thời gian có trôi đi nhưng những lời dạy về cuộc sống và giới luật được giảng giải vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.
>>>>Xem Thêm:Tượng Phật Thích Ca
Ý Nghĩa Của Việc Thờ Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch trắng nguyên khối
Thờ tượng phật là một nét đẹp trong văn hóa tín ngưỡng tâm linh của người Việt. Dù thờ bất cứ vị Phật nào thì cũng mang lại những ý nghĩa tốt đẹp cho gia chủ. Phật Thích Ca là người dám từ bỏ ngai vàng, phú quý, giàu sang để đi tìm chân lý của cuộc đời với bao khó khăn, đói khổ và đã giác ngộ, giải thoát bản thân khỏi thế tục, Phật Thích Ca chính là người khai sinh ra Phật giáo. Vì vậy, việc thờ Phật Thích ca thể hiện sự giác ngộ của gia chủ: thành tâm hướng thiện, muốn giải thoát mình khỏi các thói xấu tham sân si ở đời và muốn cầu cho gia đạo luôn được an lành, tâm thanh tịnh.
Giúp Con Người Thức Tỉnh Chân Lý Cuộc Sống
Phật giúp con người sớm thức tỉnh nhận ra chân lý của sự khổ đau, thoát khỏi bể khổ để đến với những điều tốt đẹp nhất. Nhờ đó con người được thức tỉnh, nhận ra những điều chân lý và tránh khỏi cái ác, buồn đau cuộc sống.
Thể Hiện Sự Trân Trọng Quá Khứ
Trong gia đình, các gia chủ thường đặt tượng Phật A Di Đà cạnh đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Phật Di Lặc để thể hiện cho quá khứ, hiện tại và tương lai. Có quá khứ mới có hiện tại và hiện tại sẽ cố gắng cho tương lai. Việc thờ tượng Phật thể hiện sự trân trọng quá khứ và công ơn của thần thánh đã phù hộ độ trì cho con người.
Cầu Mong Sự Bình An Và May Mắn
Phật là hiện thân của những điều tốt đẹp, việc thờ Phật mang thông điệp cầu mong sự phù hộ độ trì của Thần phật cho cuộc sống của con người được bình an và may mắn.
Bên cạnh đó, Phật còn giúp con người tránh được những điều xui, vận hạn trong cuộc sống. Tuy nhiên, nên thờ tượng phật nào trong nhà để mang lại những giá trị phong thủy tốt nhất thì gia chủ cũng cần lưu ý kĩ.
Vị Trí Lập Bàn Thờ Tượng Phật Thích Ca Trong Nhà.
Đối với những nhà rộng, có diện tích thì nên dành riêng một gian để thờ Phật riêng. Những ngôi nhà có thiết kế hiện đại còn xây riêng một tần thượng để thờ Phật Thích Ca. Trường hợp không có gian riêng cũng vẫn có thể thờ tượng Phật ở gian chính ở trên các kệ cao được thiết kế một cách trang trọng. Bàn thợ Phật phải luôn được giữ sạch sẽ, lau chùi thường xuyên.
Mặt tượng Phật nên quay về hướng Đông vì đây là hướng mặt trời mọc mà Đức Phật Thích Ca quay ra để thiền định giác ngộ. Hướng bàn thờ nên đặt theo hướng Tây Bắc vì đây là hướng tượng trưng cho trời: Tây thiên cực lạc. Tuyệt đối nên tránh đặt bàn thờ ở hướng Đông Bắc nhìn về Tây Nam và ngược lại vì đây là hai hướng ngũ qủy có rất nhiều xung khí.
Những Điều Nên Và Không Nên Làm Khi Lập Bàn Thờ Tượng Phật Thích Ca Trong Nhà.
Những Điều Nên Làm:
+ Đặt tượng Phật Thích Ca hướng ra cửa chính.
+ Tốt nhất nên thờ tượng Phật Thích Ca ở gian riêng, trên lầu cao nhất của ngôi nhà hay ở những vị trí tôn kính mà không quá ồn ào hay nhiều người qua lại.
+ Tượng trên bàn thờ nên đặt trên miếng giấy lót đỏ.
+ Bàn thờ và tượng nên lau chùi thường xuyên, khăn chậu phải đảm bảo còn mới. Có thể dùng nước sạch, rượu, nước hoa, nước bưởi để lau chùi.
+ Hàng ngày nên thắp hương sáng tối và phải đảm bảo hương còn mới, đồ cúng phải đảm bảo tươi ngon. Nên để đèn bàn thờ luôn luôn bật sáng để thu hút năng lượng dương.
+ Tượng bị cũ, mờ nên tô vẽ lại. Nếu tượng Phật bị hư hỏng quá mức thì dùng giấy vàng gói lại để ngày 1, 3, 5, 7, 9 đốt dưới nắng tiễn tượng Phật quy vị. Không nên bạ đâu bỏ đó mà mang tội.
Những Điều Không Nên Làm:
+ Không được dùng gỗ hay vật liệu đã sử dụng qua làm bàn thờ Phật vì như vậy là bất kính.
+ Trên bàn thờ không được để các dị vật khác.
+ Tượng Phật rất linh thiêng nên không được cất trong các hộp, tủ hay két sắt vì như vậy giống như bạn đang cố nhốt Phật vậy. Hành động này vừa không giúp phù hộ cho gia đình mà còn làm cho các thành viên dễ bị bệnh đau ốm thường xuyên.
+ Tuyệt đối không được để tượng Phật Thích Ca lung tung trong nhà, kị nhất là những nơi không sạch sẽ ẩm thấp.
+ Dù cho nên đặt bàn thờ ở những hướng tốt nhưng không vì thể mà đặt bàn thờ ở những vị trí ồn ào, nhiều người qua lại sẽ làm mất đi sự thanh tịnh nơi thờ cúng.
+ Không đặt tượng Phật Thích Ca ở những nơi riêng tư như phòng ăn, phòng ngủ hoặc hướng mặt về những nơi thiếu trang nghiêm như phòng tắm, bếp hay nhà vệ sinh, dưới xà nhà hay gầm cầu thang…
+ Không nên đặt giường ngủ phía sau bàn thờ Phật Thích Ca vì ngủ sẽ không an giấc và còn hay gặp mộng mị
Một số mẫu tượng Thích Ca mâu ni tại cơ sở điêu khắc Tín Khôi:
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch
Tượng thích ca mâu ni bằng đá cẩm thạch
Tượng Phật Thích Ca bằng đá cà rốt
Mua Tượng Chân Dung Bằng Đá Ở Đâu Chất Lượng, Uy Tín?
Tượng Thích Ca Mâu Ni Bằng Đá Ấn Độ Nhập Khẩu
Cơ sở khắc đá Tín Khôi chuyên thiết kế và thi công sản phẩm tượng đá, trong đó có tượng Thích Ca mâu ni từ đá tự nhiên, nguyên khối. Tượng Thích Ca mâu ni bằng đá được các nghệ nhân của chúng tôi chế tác rất đa dạng, phong phú về hình ảnh, mẫu mã, kích thước……đảm bảo đáp ứng mọi yêu cầu cũng như tiêu chí của khách hàng. Ngoài sản phẩm tượng Thích Ca mâu ni được nhiều khách hàng tin tưởng và lựa chọn, cơ sở đá Tín Khôi còn nổi trội với các dòng sản phẩm khác như : Tượng Phật bằng đá, tượng đá nghệ thuật, tượng linh vật bằng đá……
Kế thừa và phát huy truyền thống làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước Ngũ Hành Sơn, cơ sở đá mỹ nghệ Tín Khôi là một trong những cơ sở tiêu biểu, nổi bật bậc nhất làng nghề. Được sự công nhận và tin yêu của nhiều khách hàng khắp trên cả nước. Chúng tôi tự tin sẽ mang tới những bức tượng Thích Ca mâu ni tốt nhất, đẹp nhất cho khách hàng.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni – TC107 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.