Back to photostream

Măng cụt Garcinia mangostana Clusiaceae

Măng cụt (danh pháp khoa học: Garcinia mangostana), là một loài cây thuộc họ Bứa (Clusiaceae). Nó cũng là loại cây nhiệt đới cho quả ăn được, rất quen thuộc tại Đông Nam Á. Cây cao từ 7 đến 25 m. Quả khi chín có vỏ ngoài dày, màu đỏ tím đậm. Ruột trắng ngà và chia thành nhiều múi có vị chua ngọt có mùi thơm thu hút.

Nguồn gốc và phân bố

Cây măng cụt (tiếng Anh là: mangosteen) nguồn gốc Mã Lai, Nam Dương, từ Malacca qua Moluku, ngày nay bắt gặp khắp Đông Nam Á, ở Ấn Độ, Myanma cũng như ở Sri Lanka, Philippines, được các nhà truyến giáo đạo Gia tô di thực vào miền Nam Việt Nam, rồi trồng nhiều ở các tỉnh Tây Ninh, Gia Định, Thủ Dầu Một. Ở đây khí hậu cũng nóng ấm nên cây dễ mọc, vì vậy nó không tiến được lên miền Bắc xứ lạnh, xa lắm là đến Huế.

Miêu tả

Măng cụt là một loại cây to, có thể cao tới 20-25 m. Lá dày, dai, màu lục sẫm, hình thuôn dài. Hoa đực cụm 3-9 hoa có lá bắc. Hoa lưỡng tính có cuống có đốt. Quả hình cầu, to bằng quả cam trung bình, vỏ ngoài màu đỏ tím dày cứng, trong đỏ tươi như rượu vang, dày xốp, phía dưới có lá dài, phía đỉnh có đầu nhụy. Trong quả có từ 6 đến 18 hạt, quanh hạt có áo hạt trắng, ăn ngọt thơm ngon. Như các loại quả khác, măng cụt ngọt nhờ có nhiều chất đường: sucroza, fructoza, glucoza và có thể cả maltoza. Nó thơm nhờ một số lớn các chất dễ bốc hơi. Phổ sắc ký lỏng tinh dầu chiết xuất phát hiện khoảng 50 hóa chất hữu cơ, trong số ấy hơn 30 chất đã được xác định. Nhiều nhất theo phần trăm là hexenol, tương đối ít hơn là octan, đứng trước hexyl acetat, a-copaen, aceton, furfural, hexanol, methyl butenon, toluen. Những chất khác đều dưới 2% nhưng góp phần với các chất trên cấu thành hương vị của măng cụt. Ngoài hexyl acetat và hexenyl acetat đặc biệt của măng cụt, mùi trái cây là do các chất hexenal, hexanol, a-bisabolen mà ra, thêm vào mùi xoài với a-copaen, mùi hoa lài với furfuryl methylceton, mùi huệ dạ hương với phenyl acetaldehyd, mùi cỏ với hexenol, hexanal, mùi cỏ héo với pyridin, mùi lá ướt với xylen, mùi hoa khô với benzaldehyd, mùi hồ đào với d-cadinen. Aceton, ethyl cyclohexan đóng góp tính chất dịu ngọt trong lúc toluen, a-terpinol đem lại mùi đường thắng, methyl butenol, guaien mùi dầu, valencen đặc biệt mùi mứt cam. Đáng để ý là nếu furfurl methylceton cống hiến hương thơm dễ chịu thì furfural lại cho thoáng vào một mùi hôi khó ngửi.

Thành phần hóa học

Áo hạt măng cụt không thấy được khảo cứu. Phần lớn các công tác đều hướng về vỏ quả. Thành phần chính đã được xác định là một loạt xanthon mà những chất chính là mangostin, a-mangostin, b-mangostin, g-mangostin, các isomangostin, normangostin, bên cạnh trioxyxanthon, pyranoxanthon, dihydroxy methyl butenyl xanthon, trihydroxy methyl butenyl xanthon, pyrano xanthenon. Các garcinon A, B, C, D, E, mangostinon, garcimangoson A, B, C, gartanin, egonol, epicatechin, procyanidin từ măng cụt nguồn gốc Việt Nam, benzophenon glucosid tuy số lượng ít cũng đã được tìm ra. Cũng có một vài bản báo cáo trình bày thành phần hóa học của lá măng cụt. Bên cạnh protein (7,8 %), tanin (11,2 %), đã được xác định là các trihydroxy methoxy methyl butenyl xanthon, ethyl methyl maleimid glucopyranosid, cùng các triterpenoid như cycloartenol, friedlin, b-sitosterol, betulin, mangiferadiol, mangiferolic acid, cyclolanostendiol, hydroxy cyclolanostenon. Từ ruột thân cây, tetrahydroxy xanthon và dẫn xuất O-glucosid của nó cùng pentahydroxy xanthon, maclurin, cũng đã được tìm ra. Còn tử y (?) thì chứa đựng mangostin, các calaba xanthon, dihydroxy và trihydroxy dimethyl allyl xanthon.

Tác dụng dược lý

 

Những thông tin y khoa của Wikipedia Tiếng Việt chỉ mang tính chất tham khảo và không thể thay thế ý kiến chuyên môn. Trước khi sử dụng những thông tin này, đề nghị liên hệ và nhận sự tư vấn của các bác sĩ chuyên môn.

Trái măng cụt thơm ngon cũng còn cống hiến nhiều môn thuốc. Từ lâu, ở Á châu, bên Ấn Độ, hệ thống khoa học đời sống ayurvedic đã kê nó vào nhiều thang thuốc cổ truyền, đặc biệt chống viêm, chữa tiêu chảy, ức chế dị ứng, làm giản phế quản trong cuộc điều trị hen suyễn. Nó cũng được xem như là những thuốc chống dịch tả, bệnh lỵ, kháng vi khuẩn, kháng vi sinh vật, chống suy giảm miễn dịch. Người Thái dùng nó để chữa vết thương ngoài da. Người Mã Lai, Phi Luật Tân dùng nước sắc vỏ chữa lỵ, đau bụng, đi tiêu lỏng, bệnh vàng da. Theo Đông y, vỏ quả măng cụt có vị chua chát, tính bình, đi vào hai kinh phế và đại tràng, có công năng thu liễn, sáp trường, chi huyết, dùng trị tiêu chảy, ngộ độc chất ăn, khi bệnh thuyên giảm thì thôi, dùng lâu sinh táo bón . Cách thức dùng tương đối dễ: bỏ vỏ quả măng cụt khô (60g) vào nước (1.200 ml), có thể thêm hạt mùi (5g), hạt thìa lìa (5g), rồi đun sôi, sắc kỹ cho cạn chừng một nữa, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 120 ml. Nếu là người lớn, đau bụng, có thể thêm thuốc phiện. Những công tác khảo cứu mới cho biết những tính chất của vỏ trái: nhờ chất epicatechin, nó chống oxi hoá; nhờ những flavonoid, nó ức chế hoạt động sản xuất acid của trùng Streptococcus mutans GS-5. Bên phân garcinon E thì có tính chất độc hại cho các tế bào gan, phổi, dạ dày .

Trong số các xanthon, hoạt chất được khảo cứu sâu rộng nhất là những mangostin. Chúng có tác dụng mạnh lên các vi khuẩn Staphylococcus aureus ở nồng độ 7,8µg/ml, lên các nấm Fusarium oxysporum vasinfectum, Alternaria tenuis, Dreschlera oryzae , Trichophyton mentagrophytes, Microsporum gypseum , Epidermophyton floccosum ở nồng độ 1µg/ml , Mycobacterium tuberculosis ở nồng độ 6,25 µg/mL. Đem thử trên heo và chuột, nó có khả năng ức chế hệ thống phân vệ tế bào bám dính miễn dịch . Đặc biệt a-mangostin ức chế Bacillus subtilis ở nồng độ 3,13µg/ml, Staphylococcus aureus NIHJ 209p chịu đựng methicillin ở nồng độ 1,57µg/ml, tác dụng tăng cường nếu cho thêm vào vannomycin . g-mangostin thì chống sự oxi hóa lipid , ức chế sự sản xuất nitrit từ lipopolysaccharid do các tế bào đại thực gây ra. Cả hai a- và g-mangostin đều có tính chất chống dị ứng ; thuốc viên rất hiệu nghiệm trên các bệnh nhân bị chứng sổ mũi mùa . Cả hai ức chế sự co của động mạch chủ trên ngực thỏ đã bị histamin và serotonin tác động . Nói chung, cả hai đều là những chất đối kháng thiên nhiên tác dụng của histamin, tức là những tác nhân điều trị đác lực những bệnh biến dị ứng . Hai chất nấy, chiết xuất từ măng cụt nguồn gốc Việt Nam, lại có khả năng khử gốc, kháng oxi hóa . Một phần chiết măng cụt gồm có mangostin và g-mangostin ức chế HIV-1 protease (IC50=5,12 và 4,81µM).

Đứng về mặt ứng dụng, măng cụt được dùng trong thuốc tẩy, thuốc đánh răng, mỹ phẩm có tính chất kháng vi sinh vật. Một chất xanthon trộn lẫn với gartanin hay ergonol ức chế Helicobacter pylori đã được dùng để chữa ung thư, loét hay viêm dạ dày. a-mangostin có công hiệu trên Helicobacter pylori ở nồng độ 1,56µg/ml (38). a- và g-mangostin ức chế glucosyl transferase phát xuất từ trùng sâu răng Streptococcus sobrinus và collagenase do vi khuẩn viêm lợi Porphyromonas gingivalis gây chảy mũi nên được dùng trong thuốc đánh răng, có khả năng ngừa chặn sâu răng và mảng răng. Mangosten được trộn với nhiều hóa chất khác như cetyl alcool, cetyl phosphat, dimethicon, eicosen, disodium, magnesium stearat, dipropylen glycol, triethanolamin,… để làm một loại thuốc bảo vệ chống ánh nắng mặt trời . Nhờ tính chất ức chế hoạt động phosphodiesterase, ở nồng độ 50µg/ml trong một dung dịch 5% dimethyl sulfoxyd, nó được dùng để làm thuốc kích thích tiêu mỡ. Sau cùng, cũng nên biết để trái măng cụt tránh bị rám nâu khi tích trữ trong tủ lạnh, nó cần phải được lắc lay một phút trong một dung dịch 0,25% calcim chlorid + 0,5% citric acid.

 

vi.wikipedia.org/wiki/M%C4%83ng_c%E1%BB%A5t

 

Từ xa xưa, nhân dân các nước vùng Đông Nam Á như Thái Lan, Malayxia, Indonexia, Philippin và Việt Nam vẫn dùng vỏ trái măng cụt để điều trị một số bệnh.

 

Mới đây các nhà khoa học Mỹ cũng tiến hành nghiên cứu về loại trái cây quý này và phát hiện thêm một số đặc tính quý báu nữa.

 

Chống mệt mỏi: Khả năng chống mệt mỏi đã được tìm thấy ở trái măng cụt. Những người dùng măng cụt đã từng khen ngợi về sự tăng cường sinh lực một cách an toàn và cảm thấy khỏe khoắn trong người.

 

Giảm bệnh tim mạch: Bệnh tim và chứng xơ vữa động mạch xảy ra khi tính co giãn của các mạch máu quanh tim giảm. Măng cụt giúp củng cố hệ thống tuần hoàn, khi những mạch máu trở nên khỏe mạnh, nguy cơ của bệnh tim mạch cũng giảm theo.

 

Chống các phần tử gây lão hóa: Măng cụt có nhiều hóa chất đã chứng minh là có khả năng gấp bội so với sinh tố nhóm C và sinh tố nhóm E trong việc chống lão hóa.

 

Giảm huyết áp: Huyết áp cao là một trong những nguyên nhân dẫn đến chứng xơ vữa động mạch. Những cặn lắng nguy hiểm thường làm hẹp đường lưu thông máu trong các động mạch khiến gia tăng nguy cơ bị đau tim và đột quỵ. Măng cụt đã tỏ ra hữu hiệu, nhất là đối với những người có trọng lượng cơ thể trung bình, trong việc giảm huyết áp và ngăn sự tấn công huyết áp của mạch máu đường phổi.

 

Củng cố đường tiết niệu: Phụ nữ có tuổi hay bị chứng "Tiểu không tự chủ" thường do sự thoái hóa tự nhiên của cơ bắp vùng xương chậu. Khi đàn ông có tuổi, tuyến tiền liệt tự nhiên to ra khiến đường tiểu hẹp lại và đưa đến tình trạng một phần nước tiểu tồn đọng lại ở bàng quang sau khi tiểu. Cả hai giới tính trong tình trạng này thường bị nhiễm trùng đường tiết niệu. Kháng thể Xanthones trong trái cây măng cụt đã tỏ ra có hiệu quả trong việc kháng vi trùng giúp cho đường tiết niệu sẽ được củng cố tốt hơn.

 

Giảm hơi thở hôi: Kháng thể Xanthones trong trái măng cụt có khả năng diệt khuẩn. Do đó khi ăn hoặc súc miệng bằng nước măng cụt sẽ làm giảm hơi thở hôi trong miệng.

 

Giữ cân bằng trong dạ dày: Một trong những hậu quả của sự lão hóa là suy giảm tự nhiên chất acid trong dạ dày, dẫn đến sự tăng vi trùng trong dạ dày và gây ra chứng tiêu chảy, đau quặn bụng, ợ hơi và không thể hấp thụ đủ chất dinh dưỡng. Kháng thể Xathones trong trái măng cụt đã chứng tỏ khả năng tiêu diệt sự sinh sôi quá độ của vi khuẩn để cải thiện và tái lập sự cân bằng trong dạ dày.

 

Làm dịu chứng hen suyễn: Măng cụt chính là một lựa chọn lý tưởng vì măng cụt có khả năng chống nhiễm trùng, ngăn chứng viêm và giảm thiểu dị ứng khởi phát một cách tự nhiên.

 

Chống và ngăn ngừa bệnh tiểu đường: Chứng viêm kinh niên là một trong những căn nguyên hàng đầu dẫn đến bệnh tiểu đường tuýp 2; măng cụt là loại trái cây tự nhiên có khả năng chống viêm cho nên nó có thể giúp chúng ta ngăn ngừa bệnh này. Với khả năng làm giảm và điều hòa lượng đường trong máu, tăng sinh lực và làm giảm nhu cầu thuốc men, măng cụt có thể là câu trả lời cho bệnh tiểu đường.

 

Có lợi cho hệ thống thần kinh: Hiện tượng lão hóa đối với não bộ là một nguyên nhân chính yếu của các bệnh lý thần kinh, đãng trí, tay chân run lẩy bẩy và những bệnh khác có liên quan đến trung khu thần kinh. Măng cụt là một trong những thứ hữu hiệu nhất để chống lão hóa, cho nên nó được xem như có hiệu quả trong việc phòng ngừa sự thoái hóa của thần kinh.

 

Ngăn ngừa bệnh ung thư: Các nhà khoa học đang nghiên cứu về khả năng có thể phòng ngừa bệnh ung thư của trái măng cụt. Kết quả cho thấy nước được rút ra từ trái măng cụt có tác dụng ngăn chặn phần nào sự phát triển của các tế bào ung thư máu trong cơ thể con người, và cũng góp phần ngăn chặn sự bành trướng nhanh chóng của các tế bào gây bệnh ung thư vú của phụ nữ, ung thư gan và các tế bào ung thư liên quan đến dạ đày và phổi.

 

Ngăn ngừa các bệnh dị ứng: Măng cụt có khả năng kháng histamin cũng như các chứng viêm. Dùng nước ép từ trái măng cụt sẽ thấy thích thú hơn là thuốc trị bệnh dị ứng và nhất là không cảm thấy buồn ngủ như khi dùng thuốc men.

 

Chống các bệnh truyền nhiễm: Các nhà khoa học đã cấy vi trùng đang phát triển vào dung dịch măng cụt và quan sát thấy măng cụt đã chặn đứng sự phát triển của các vi trùng. Vì khả năng tự nhiên này, măng cụt được coi là "nữ hoàng chống vi trùng" (theo báo The Nation - Thái Lan).

 

Giúp hưng phấn tinh thần: Măng cụt có khả năng giúp cho người sử dụng có một cảm giác hoàn toàn thư thái trong lòng. Ngoài ra trong trái măng cụt còn có Trytophan acid - chất này có liên hệ trực tiếp với serotonin, một chất dẫn truyền thần kinh có liên hệ mật thiết với giấc ngủ, tâm trạng vui buồn và khẩu vị.

 

Cải thiện làn da: Các chứng bệnh ngoài da như chàm (eczema), viêm da, mụn trứng cá, vẩy nến, và chứng ngứa thường được điều trị bằng Steroids và các loại kem chống nấm. Sử dụng nước măng cụt bôi rửa ngay trên vùng da đang bị tổn thương cho thấy các chứng bệnh ngoài da kể trên đã điều trị tự nhiên mà không cần thuốc men và không sợ bị phản ứng phụ như khi sử dụng dược phẩm.

 

Giảm cholesterol: Khi cholesterol xấu bị lão hóa sẽ sinh ra những mảng bám trong mạch máu. Các công trình nghiên cứu cho thấy kháng thể Xanthones trong măng cụt có tác dụng làm giảm tác dụng gây lão hóa của cholesterol xấu và ngăn ngừa sự hình thành các mảng bám nguy hiểm.

Theo Healthnet

 

www.vnnavi.com/news/mangcut.html

29,503 views
0 faves
3 comments
Uploaded on July 1, 2008
Taken on July 1, 2008